I. Khái niệm downtrend là gì?
Một khi giai đoạn phân phối hoàn thiện, giai đoạn markdown bắt đầu. Giá giảm sau khi kết thúc giai đoạn phân phối có thể sẽ biến động lộn xộn (lỏng lẻo). Khi smart money tham gia mua thì sẽ làm cổ phiếu tăng. Nhưng khi họ không còn muốn nắm giữ nữa, họ sẽ bán ra. Lúc này họ thực hiện việc phân phối thông qua giai đoạn phân phối cho công chúng (những người nắm giữ yếu). Khi cổ phiếu đã được phân phối xong thì giá sẽ giảm một cách nhanh chóng. Chúng ta sẽ nghiên cứu giai đoạn Markdown và các thuộc tính của chúng.
Chúng ta thường nghe khái niệm xu hướng là một người bạn (trend is your friend), có điều xu hướng downtrend là một người bạn ít thân thiện hơn xu hướng uptrend. Chúng biên động đột ngột và thường khó để giao dịch. Tóm lại downtrend là một người bạn không thân thiện.
Trong xu hướng downtrend giá có thể vận động trong một kênh xu hướng giảm (Đường kênh là đường được tạo ra bởi đường kháng cự và hỗ trợ). Hoặc giá có thể xuất hiện các thanh downbar kèm theo GAP, dừng lại, và lại tiếp tục xuất hiện các phiên giảm kèm theo GAP. Trong thị trường uptrend smart money sẽ thường đặt lệnh mua ở mức giá thấp hơn để đỡ cho giá không giảm (hoặc là hành động mua gom) điều này khiến cho các đợt điều chỉnh thường sẽ không mạnh. Nhưng ở xu hướng downtrend sẽ không xuất hiện một lực cầu đỡ của smart money, do đó khi giá giảm rất khó để giao dịch. Xây dựng kênh xu hướng bắt đầu bằng một đường Supply. Đây là đường trendline được vẽ cắt qua các đỉnh của mỗi đợt hồi phục giá. Hầu hết các nhà đầu tư trong giai đoạn này thường vẫn kỳ vọng vào một mức giá cao hơn vì vậy thường thì họ sẽ không có khái niệm kẻ một đường xu hướng giảm. Bạn phải luôn cảnh giác trong giai đoạn này, vì sau mỗi lần hồi phục và tạo đỉnh giá có thể giảm rất nhanh.
Các bước giảm có thể được xác định từ khi bắt đầu giai đoạn downtrend (tức là khoảng cách mỗi lần giá giảm rồi dừng lại rồi mới giảm tiếp). Hai đường tạo nên một kênh xu hướng là đường Supply và đường Oversold. Đường cung là mức giá mà ở đó sau mỗi lần hồi phục lại xuất hiện một lực bán mạnh làm giá giảm xuống. Đường này hướng xuống vài vậy đây được gọi là đường downtrend. Giá thường sẽ giảm từ đường cung đến đường quá bán rồi dừng lại. Đây chính là kênh xu hướng downtrend.
Để xác định đường cung, hay tìm hai đỉnh giá liền kề với đỉnh sau thấp hơn đỉnh trước. Sau đó bạn vẽ một đường thẳng nối hai đỉnh này, đây chính là đường cung. Sau khi xác định đường đường cung hãy tìm một đáy xuất hiện ở giữa hai đỉnh và kẻ một đường thẳng song song với đường cung, đường này được gọi là đường quá bán. Hãy quan sát theo kênh xu hướng để xác định các điểm thấp hơn. Khi xác định được kênh xu hướng thì chúng ta coi đây là một phạm vi mà giá sẽ vận động trong xu hướng downtrend. Giá sẽ có xu hướng vận động ở trong phạm vi này.
Sau một thời gian downtrend có thể sẽ xuất hiện một giai đoạn phân phối lại(SSR). Đây là phạm vi giao dịch sideway có thể kéo dài vài tuần đến nhiều tháng. SSR thường sẽ làm gián đoạn kênh xu hướng giảm. Sau khi hoàn thành giai đoạn SSR, giá sẽ tiếp tục xu hướng downtrend trước đó.
Ở ví dụ này chúng ta thấy đường cung được xác định bởi hai đỉnh liền kề và đường quá bán được kẻ qua đáy xuất hiện ở giữa hai đỉnh. Đường quá bán bị vi phạm 2 lần trong quá trình giảm. Sự sụt giảm cuối cùng của giá tạp một GAP lớn và xuất hiện một SCLX. Sau đó giá hồi phục trở lại và vượt ra khỏi kênh xu hướng. Khi giá vượt ra ngoài kênh đường cung chuyển từ đường kháng cự sang đóng vai trò là đường hỗ trợ. Lúc này chúng ta cần thời gian để quan sát xem khi giá vượt ra khỏi đường kênh thì sẽ hình thành một giai đoạn tích lũy hay là giai đoạn tiếp tục phân phối.
Biểu đồ TSLA có xu hướng giảm mạnh trong 7 tháng. Ở tháng 3, xuất hiện một đợt hồi phục nhưng không chạm đường cung và tốc độ giảm bị chậm lại. Đây là một dấu hiệu xuất hiện một sự tích lũy trong kênh downtrend (Hãy xem đường hỗ trợ và kháng cự trên hình). Khi giá Break khỏi đường cung, lúc này đường cung đã trở thành đường hỗ trợ và giá tăng trở lại. Đây là bằng chứng cho việc giá đã thay đổi bản chất (từ giảm sang tăng).
Ở ví dụ này, một đường kênh downtrend được xác định như trên hình.
Lưu ý cách giá vận động ở phần sau của xu hướng. Giá vận động cực đại khi giá giảm phá vỡ đường quá bán. Đây là một hành động dừng và có thể dẫn dến việc xuất hiện giai đoạn phân phối lại hoặc giai đoạn tích lũy. Sẽ cần thời gian để xuất hiện các tín hiệu xác nhận đây là giai đoạn tích lũy hay phân phối lại.
Trên đây là 3 ví dụ về đường kênh xu hướng downtrend. Có một số trường hợp rất khó để chúng ta có thể vẽ được một đường kênh xu hướng, chúng ta sẽ nghiên cứu các tình huống này trong các bài sau.
Khi bạn vẽ được một đường trendline theo phương pháp của Wyckoff, nó giống như bạn đeo kính 3D. Việc sử dụng các đường xu hướng để phân tích xu hướng, các biểu đồ giá sẽ trở lên sống động và tiết lộ những bí mật và mục đích thực sự của chúng. Đường cầu và đường cung, đường quá bán, đường hỗ trợ, đường kháng cự, tất cả đều có ý nghĩa giải thích về hành vi và sự vận động của giá. Khi chúng ta nâng cao được kỹ năng vẽ các đường xu hướng này chúng ta sẽ là những người làm chủ được phương pháp của Wyckoff.
Khi bạn nghiên cứu một biểu đồ, vẽ được các đường xu hướng, đường kênh và vùng giao dịch (TR), điều đó sẽ giúp bạn có một cái nhìn rất vui vẻ khi quan sát cổ phiếu trên biểu đồ. Sự xuất hiện nguồn cung và giá ngừng tăng trở nên rất rõ ràng và giúp bạn đưa ra các chiến lược giao dịch chuẩn xác. Một đường xu hướng thích hợp sẽ giúp bạn xác định được các điểm mà tại đó giá sẽ có hành động tăng hoặc giảm trong tương lai. Kênh xu hướng cho bạn biết bản chất của sự tăng hoặc giảm của giá. Nó có phải là một kênh rộng, và giá biến động lỏng lẻo trong một xu hướng kéo dài hay không? Đó có phải là một kiểu vận động dạng bậc thang của giá? Những nghiên cứu điển hình này sẽ cho bạn thấy bản chất đa dạng của xu hướng downtrend và cách các đường xu hướng có thể hỗ trợ chiến thuật giao dịch hiệu quả. Khi bạn vẽ được các đường xu hướng, bạn sẽ phát hiện ra rất nhiều thông tin bổ ích được ẩn chứa bên trong biểu đồ giá. Và như khi bạn đeo kính 3D, bạn sẽ có nhiều góc nhìn có ích hơn khi quan sát biểu đồ
Ở bài trên chúng ta đã thảo luận về xu hướng downtrend và cách vẽ một đường trendline và kênh xu hướng. Ở những bài trước nữa chúng ta cũng đã thảo luận về xu hướng uptrend.
II. Thực hành từ các ví dụ thực tế
Trên biểu đồ chúng ta thấy các bước giảm của cổ phiếu HOG được xác định ở đầu giai đoạn giảm. Chúng ta thấy ở hai đỉnh đầu tiên và thứ 2 giá bắt đầu giảm với khối lượng lớn. Khối lượng lớn 2 đỉnh này cho ta thấy rằng tại đây xuất hiện một lượng cung lớn. Chúng ta sử dụng 2 đỉnh này để vẽ đường thẳng gọi là đường xu hướng cung. Mức đáy hình thành giữa hai đỉnh này là điểm vẽ đường thẳng song song được gọi là đường quá bán. Hai đường này tạo ra một kênh xu hướng downtrend. Kênh xu hướng này thực sự hữu ích, nó cho bạn biết khi giá phá vỡ đường quá bán trong phiên nhưng đóng cửa ở trên đường này. Phiên này tạo mức giá thấp nhất sau đó hồi phục bắt đầu. Điểm bán cực đại này chấm dứt một đợt điều chỉnh.
Năm 1998, chỉ số INDU bắt đầu một đợt suy giảm. Đây là một ví dụ về một kênh xu hướng điển hình. Chúng ta thấy rằng ở những điểm giá tiếp cận đường cung, khối lượng thường rất cao và sau đó giá giảm rất mạnh. Hãy để ý đến những phiên hồi phục ở tháng 8, nó rất yếu. Nó giống với sự tạm dừng để phân phối lại hơn là một sự hồi phục. Đây là hành giá điển hình khi giá thấp hơn ICE. Giai đoạn này kết thúc với một sự suy giảm mạnh mẽ, đợt suy giảm này kết thúc khi tạo ra một điểm bán cực đại dưới đường quá bán. Sau đó giá vận động sideway tích lũy kết thúc giai đoạn giảm. Khi INDU ở trên đường cung, giá bắt đầu tăng rất mạnh.
Trong ví dụ này chúng ta có 2 đường kênh xu hướng. Kênh màu xanh được vẽ theo phương pháp cổ điển mà chúng ra vẫn sủ dung ở phần trên. Kênh màu hồng sử dụng kỹ thuật đảo ngược đường xu hướng. Điều này minh họa cho bạn thấy rằng có nhiều cách để vẽ các đường xu hướng. Bạn có thể vẽ hai kiểu đường xu hướng này riêng biệt để so sánh, mỗi phương pháp đều đưa ra ccs điểm giao dịch khác nhau.
Trên đây là biểu đồ theo khung thời gian tuần của INDU. Các đường kênh xu hướng sử dụng ở khung thời gian lớn rất hiệu quả như bạn thấy trên biểu đồ. Như bạn thấy, chiều rộng của kênh xu hướng rất lớn, khối lượng lớn ở đỉnh 2001 và 2002 xác nhận rằng đây là 2 điểm hình hành đường cung. Điểm đáy sâu nhất với khối lượng lớn là điểm ta sẽ vẽ đường quá bán. Chiều rộng của kênh xu hướng cho ta một dự đoán giá sẽ giảm về đường quá bán sau khi giá giảm từ đỉnh trước đó. Khi giá giản phá vỡ đường quá bán tạo lên một điểm bán cực đại, đó chính là đường xu hướng quá bán. Một AR xuất hiện và giai đoạn tích lũy bắt đầu. Chúng ta thấy giá rất khó khăn để trở lại đường quá bán cho thấy dấu hiệu INDU không còn động lực để giảm.
Sử dụng kỹ thuật đảo ngược đường xu hướng là một kỹ thuật hữu ích đối với cổ phiếu MNST. Hai mức thấp liền kề với khối lượng lớn tại đó xác định đường xu hướng quá bán. Đường cung được xác định là cao nhất giữa hai đáy.
Lưu ý các phiên mua cực đỉnh ở những vùng đáy của đợt suy giảm. Một tín hiệu khác của downtrend được sử dụng đường kênh xu hướng là cách biến động giá tăng ở cuối của giai đoạn downtrend.
Tiếp tục phân phối
Thị trường downtrend là một dạng biến động rất khó lường, nó có thể nhanh hoặc chậm, mạnh hoặc yếu hoặc là một dạng biến động khác mà bạn khó có thể dự đoán được. Thị trường downtrend thường ít được nghiên cứu hơn những giai đoạn khác. Sau một giai đoạn downtrend mọi người thường nhanh chóng quên chúng. Chúng ta có thể nhớ giai đoạn downtrend năm 2007-2009, sự suy giảm có bắt đầu từ những năm trước đó không? thực sự là rất ít người còn nhớ.
Ở phần trên chúng ta đã học về cách vẽ đường xu hướng trong một thị trường downtrend. Những phần tiếp theo chúng ta sẽ nghiên cứu về giai đoạn phân phối lại. Đây là một giai đoạn có thể miêu tả như một vùng giao sideway sau một giai đoạn suy giảm. Phân phối lại là một một giai đoạn giá dừng giảm và sideway sau đó lại tiếp tục xu hướng downtrend trước đó. Trong một quá trình downtrend có thể xuất hiện nhiều giai đoạn phân phối lại.
Trong một thị trường downtrend hầu như tất cả cổ phiếu đều không có lực cầu mua vào. Lúc này hầu hết cổ phiếu đều nằm trong tay công chúng chứ không phải smart money. Giai đoạn Markdown là giai đoạn chính của cả xu hướng downtrend. Tuy nhiên bên trong một quá trình markdown có rất nhiều hành vi giá, đa số các hành vi giá trong giai đoạn này chúng ta nên tránh tuy nhiên vẫn có một số hành vi tạo cho chúng ta cơ hội để giao dịch. Giai đoạn phân phối lại là giai đoạn mà giá tạm dừng sau một giai đoạn giảm mạnh trước đó trước khi tiếp tục xu hướng downtrend. Rất nhiều nhà đầu tư thường nhầm lẫn giữa giai đoạn tích lũy lại như là một giai đoạn tích lũy. Do đó mục tiêu của phần này là hướng dẫn bạn có những kỹ năng để phân biệt sự khác nhau giữa hai giai đoạn này. Bạn nên tránh mua sớm khi chưa xuất hiện tín hiệu tin cậy để xác nhận đó là giai đoạn phân phối lại hay tích lũy. Điều này sẽ giúp bạn bảo toàn vốn của mình cũng như không làm bạn bị áp lực mỗi khi thực hiện giao dịch.
Sự phân phối lại có nhiều hình dạng, kích thước và khung thời gian khác nhau. Giá trong giai đoạn này thường biến động rất lỏng lẻo và thường khó dự đoán. Chúng ta sẽ nói đến một số đặc điểm chính của giai đoạn này ở trong những ví dụ cụ thể ở phần sau. Chúng tôi sẽ cố gắng tìm các điểm để mở vị thế short trong giai đoạn này nhưng tôi xin nhấn mạnh rằng nên tránh tham gia vào giai đoạn downtrend nếu như bạn không thành thạo.
Cổ phiếu ARMH đã kết thúc giai đoạn tăng với một giai đoạn tăng nóng và tạo đỉnh ở BCLX sau đó giảm mạnh và tạo ra một giai đoạn 9 tháng phân phối lại sau đó.
Lưu ý thanh UT (Upthrust) phía trên hộp màu xanh lục. Thanh giá này giúp cho lực cung và cầu cân bằng nhau. Trong khi đó smart money có rất ít thời gian để phân phối ở đỉnh, vì vậy họ cần phải tiến hành một giai đoạn tiếp tục phân phối để phân phối được nhiều hơn. Lần phân phối thứ 2 kéo dài 1 năm và giá giảm từ 17.5 về đến 2. Việc giá giảm quá nhanh ở vùng đỉnh khiến cho các nhà đầu tư không kịp trở tay. Những phiên suy giảm mạnh cảnh báo rằng xu hướng uptrend đã kết thúc. Lần phân phối lại đầu tiên là cơ hội tốt nhất để bán cố phiếu.
Cổ phiếu AMZN giảm tạo nên các bậc thang thấp dần. Đường xu hướng được vẽ ở hai đỉnh liền kề đầu tiên cho thấy quỹ đạo của xu hướng downtrend. Giai đoạn markup sau đây minh họa sự khác biệt giữa downtrend và uptrend. Thị trường downtrend có sự biến động giá rất lớn và khó đoán, đấy là lý do bạn nên tránh tham gia giao dịch trong xu hướng này.
Từ tháng 3/2008 đến tháng 9/2008 cổ phiếu GS vận động tương đối êm đềm trong giai đoạn sideway. Khi kết thúc giai đoạn sideway giá giảm rất nhanh và mạnh. Việc phân phối lại tường được giải quyết với mức giá giảm rất nhah và mạnh.
Ở ví dụ này, cổ phiếu BAC có một đợt hồi phục rất mạnh từ giá 17 đến 37 tron lần phân phối thứ 2, xu hướng chính vấn là downtrend. Smart money sử dụng các đợt phân phối lại để tiếp tục bán ra cổ phiếu họ đang nắm giữ. Tất cả các thủ thuật để phân phối đều được sử dụng trong giai đoạn phân phối lại ở ví dụ này. Chúng ta sẽ khám phá những chiến thuật giao dịch phù hợp trong giai đoạn phân phối lại ở những phần sau.
Phân tích xu hướng là một công cụ hữu ích để phân tích trong những giai đoạn downtrend và phân phối lại. Một xu hướng giảm có biến động mạnh thường trở lên biến động mạnh mẽ vào cuối giai đoạn downtrend. Kênh xu hướng của cổ phiếu MS được test nhiều lần, nhưng không bị vi phạm quá lâu (Tức là giá vận động chạm đường kênh sau đó ngay lập tức quay lại trong kênh). Giá vận động quanh đường cung ở gần đoạn cuối, sau khi kết thúc hành động đi ngang, giá đột ngột giám rất mạnh xuyên qua đường quá bán.
Việc phân phối lại rất phổ biến, thường sẽ khó để nắm bắt được giai đoạn này và khó để giao dịch. Tuy nhiên vẫn có những đặc điểm nhận ra một giai đoạn phân phối lại và giúp chúng ta có được phương pháp giao dịch phù hợp. Đối với hầu hết chúng ta, việc tránh giao dịch trong giai đoạn downtrend là hành động khôn ngoan nhất. Tuy nhiên, chúng ta vẫn sẽ nghiên cứu tất cả các giai đoạn của thị trường, chúng ta luôn tìm cách phân tích sự vận động của thị trường trong thời gian hiện tại. Nếu các tín hiệu tích cực chưa xuất hiện chúng tôi dành thời gian nghỉ ngơi, và chuẩn bị mọi thứ khi một xu hướng mới xuất hiện.
Phân phối lại là một giai đoạn rất lộn xộn. Chúng có nhiều hình thái và kích thước khác nhau. Vì vậy việc phân tích giai đoạn này rất phức tạp. Nhiệm vụ của chúng tôi là tìm kiếm các đặc điểm của một giai đoạn phân phối lại và tìm các điểm có thể tham gia giao dịch. Đây là một vấn đề khó khăn. Ở những phần đầu chúng ta đã nói về giai đoạn tích lũy lại, đó là giai đoạn mà cổ phiếu hoặc hàng hóa hoặc các thị trường tài chính khác được tiếp tục hấp thụ bởi smart money hoặc tích lũy để tiếp tục xu hướng uptrend. Sự hấp thụ đa số được thực hiện bởi smart money từ tay các nhà đầu tư nhỏ lẻ. Sự hấp thụ giúp cho giá cổ phiếu giảm đi sự biến động lớn, khi giai đoạn tích lũy lại hoàn thành, giá sẽ tiếp tục xu hướng uptrend trước đó. Ở đầu của giai đoạn tích lũy lại, biến động giá cao do các nhà đầu tư nhỏ lẻ hoặc các nhà đầu tư khác chốt lời sau một giai đoạn tăng trước đó.
Đợt điều chỉnh đầu tiên thường có biến động lớn và mạnh khi các nhà đầu tư nhỏ lẻ chốt lời. Sau đó giá sẽ biến động trong vùng sideway, các đợt điều chỉnh sau đó thường yếu. Điều này là do smart money đặt lệnh mua để hấp thụ hết lượng cung bán ra. Lực cầu của smart money sẽ đỡ cho giá không bị giảm nhiều. Thường ở nửa cuối giai đoạn tích lũy lại thường xuất hiện các đợt điều chỉnh với đáy sau cao hơn đáy trước. Bạn hãy nhớ rằng mục đích chính của smart money trong giai đoạn này là tích lũy thêm cổ phiếu một cách cẩn thận theo cách mà không làm cho giá tăng quá nhanh trước khi việc tích lũy hoàn thành.
Điều ngược lại diễn ra trong quá trình phân phối lại. Cổ phiếu trong một xu hướng chính là downtrend sẽ không cuất hiện lực cầu từ smart money. Khi smart money đã không quan tâm đến cổ phiếu đó nữa thì nó trở nên rất yếu và dễ bị ảnh hưởng của biến động thị trường (Đây là lý do một số cổ phiếu tăng ít hoặc không tăng khi thị trường chung tăng nhưng khi thị trường chung điều chỉnh là nó lại giảm rất mạnh). Trong một thị trường downtrend các nhà đầu tư đã mở vị thế short sẽ cover lại để đóng vị thế khi họ thấy mức lợi nhuận đạt như họ kỳ vọng. Trong một thị trường downtrend sự biến động thường lớn và khó đoán. Khi các nhà đầu tư đóng vị thế short trước đó là lúc giá đảo ngược và tăng lên rất nhanh. Khi giá hồi phục như vậy sẽ bắt đầu một giai đoạn phân phối lại. Giá cổ phiếu tăng mạnh sẽ khiến cho rất nhiều nhà đầu tư đã mở vị thế short đóng lại vị thế. Giai đoạn phân phối lại sẽ xuất hiện rất nhiều các đợt hồi phục và điều chỉnh với biến động mạnh lỏng lẻo, nó sẽ diễn ra lặp đi lặp lại. Sự biến động như vậy sẽ khiến cho các nhà đầu tư chán nản và cuối cùng xu hướng giảm sẽ tiếp tục.
Không phải tất cả smart money đều là người mở vị thế short, nhưng những người short tốt nhất lại là smart money. Cách thức hoạt động của họ trong thời gian phân phối lại là mở vị thế short ở các mức giá đỉnh của phạm vi giao dịch và đóng một phần vị thế ở mức đáy. Tuy nhiên tổng lệnh short của họ trong suốt giai đoạn này nhiều hơn lệnh long. Mục đích của việc đóng 1 phần vị thế short ở vùng đáy của TR nhằm mục đích không cho giá giảm quá sớm trước khi họ mở được 1 lệnh short đủ lớn. Đối với smart money thì việc lấy đủ vị thế short trước khi markdown khó hơn việc mua tích lũy để đẩy giá. Do đó việc phân phối lại giống như tích lũy lại chỉ khác nhau về bản chất và động cơ. Giai đoạn phân hối được hình thành khi giá giảm biến động lớn, sau đó sideway và tiếp tục xu hướng downtrend. Khi tích lũy lại, ở thời gian cuối cổ phiếu thường biến động chặt với khối lượng lớn trước khi Break cho một xu hướng uptrend tiếp, nhưng ở giai đoạn tích lũy lại ở đoạn cuối giá lại biến động mạnh và Breakdown trước khi tiếp tục xu hướng downtrend.
Phân phối lại bắt đầu với giá biến động mạnh và kết thúc cũng vậy. Điển hình là điểm bán cực đỉnh SCLX bắt đầu một giai đoạn tích phân phối lại. Phân phối lại giống như giai đoạn phân phối chính. Vì vậy các đặc điểm của quá trình phân phối đều được sử dụng để nghiên cứu ở giai đoạn phân phối lại.
Trên biểu đồ của cổ phiếu ARMH, Giá hồi phục sau điểm SCLX xóa dấu vết của đợt phân phối trước. Vì vậy ở đây chúng ta bắt đầu nghiên cứu so sánh với sơ đồ mẫu hình phân phối từ sau điểm SCLX. Việc ghi nhãn màu xanh cho SCLX và AR, ST để minh họa cho sự tương đồng với giai đoạn tích lũy. Đây là hành động giá dừng cổ điển. Ghi nhãn màu đỏ minh họa cho các thuộc tính phân phối và phân phối lại.
Lưu ý rằng khi hành động giá dừng xuất hiện lý do là smart money dấu đi dấu hiệu phân phối trước đó. Nỗ lực hỗ trợ của cổ phiếu này diễn ra lại ICE (ICE là đường nối giữa các đáy lại với nhau). Đây là dấu hiệu của sự yếu đuối trong nội tại cổ phiếu và được đánh dấu là SOW. Khi giá phá vỡ qua đường ICE, lúc này lực cầu của công chúng không đủ để đỡ giá cổ phiếu để xuất hiện các đợt hồi phục như trước. Cổ phiếu rất dễ bị tổn thương và giảm rất nhanh khi giá Breakdown qua ICE.
Sau hành động cực đỉnh lại UT giá biến động lỏng theo xu hướng giảm. Các đợt hồi phục xuất hiện một cách yếu ới theo thời gian ngắn do thiếu lực đỡ từ smart money.
Chúng ta sẽ dành nhiều thời gian hơn để phân tích các kỹ thuật giao dịch trong giai đoạn phân phối lại.
Dưới đây là ví dụ điển hình để chúng ta nghiên cứu về giai đoạn phân phối lại.
Đây là biểu đồ giá của cổ phiếu CSCO (Cisco System). Cổ phiếu này xuất hiện một giai đoạn uptrend huyền thoại trong những năm 1990. Cisco chào bán cổ phiếu ra công chúng vào tháng 2/1990 và giá cổ phiếu tăng liên tục trong cả thập kỷ. Sau một giai đoạn tăng huyền thoại, tất cả mọi thứ kết thúc vào tháng 3/2000, cổ phiếu CSCO tạo đỉnh và bắt đầu một đợt suy giảm đầu tiên. Trong bài viết này, chúng tã sẽ nghiên cứu 4 đợt phân phối lại trong suốt xu hướng downtrend.
Trong suốt 10 năm tăng giá tất cả các nhà đầu tư, tổ chức đều chấp nhận tất cả các mức giá cao của cổ phiếu và là một cổ phiếu bắt buộc phải có trong danh mục. Khi giá tạo đỉnh một cách bất ngờ, mọi người đều bị bất ngờ và không kịp hành động. Tức là rất ít người có thể phân phối cổ phiếu ở vùng đỉnh. Vì vậy smart money và những nhà đầu tư nhanh nhẹn chính là những người bán sớm nhất từ khi giá đạt đỉnh.
Xu hướng tăng kéo dài một thập kỷ có nghĩa là nguồn cung lớn sẽ xuất hiện trên thị trường sau khi mức cao nhất định. Cổ phiếu này cần được bán trong quá trình Phân phối lại, và nó sẽ mang lại lợi ích cho C.O. để có độ dài phân phối lại. Sau đó, giá giao dịch sideway và đây chính là giai đoạn phân phối đầu tiên.
Công chúng đều nghĩ rằng giá giảm xuống là một cơ hội để mua vào giá tốt. Và họ đã bị mắc bẫy. Một loạt các giai đoạn phân phối lại xuất hiện trong toàn bộ xu hướng downtrend. Biểu đồ này không đại diện cho tất cả các kiểu giảm giá trong downtrend (nhiều dạng phân phối khác) nhưng nó cho thấy tính chất khó lường của một xu hướng downtrend.
Những phần được tô màu là những vùng phân phối lại.
Đợt suy giảm thường kết thúc khi xuất hiện vùng giao dịch cực đỉnh, đó là những phiên xuất hiện khối lượng giao dịch cực lớn và giá biến động với biên độ rộng (Điểm SCLX ở hình trên). Điều này cho thấy sự phục hồi sắp xảy ra và giá có thể sắp hồi phục trở lại. Khi giá suy giảm từ vùng đỉnh 72 xuống với khối lượng tăng cao là một dấu hiệu của sự phân phối. Sau khi giá hồi phục từ SCLX tạo tạo lên mức giá cao nhất ở điểm PSY rồi suy giảm trở lại và hồi phục test lại đường kháng cự. Tại BCLX chúng ta thấy khối lượng giao dịch cực lớn và giá điều chỉnh. Điều này là tín hiệu chỉ ra rằng cổ phiếu đã rất yếu và có khả năng mức giá 62 là mức giá cao nhất ở giai đoạn này. Từ tháng 6 đến tháng 10 chính là một giai đoạn phân phối lại. ICE bị phá vỡ trong tháng 9 với biên độg giá rộng và khối lượng lớn. Sau đó giá giảm xen kẽ các đợt dừng theo dạng bậc thang là lúc này ICE trở thành đường kháng cự. CSCO dễ bị tổn thương trước sự yếu kém về giá. Đây là những thời điển để bán cổ phiếu ở những điểm ST và LPSY. Ngoài ra việc phá vỡ ICE và LPSY tiếp theo đại diện cho những điểm bán cuối cùng, Việc giá giảm với biên độ và khối lượng lớn là dấu hiệu cho thấy xu hướng giảm sẽ sớm tiếp tục. Việc phá vỡ đường hỗ trợ và thủng mức đáy trước đó là dấu hiệu SOW và là bằng chứng cho thấy cung lớn hơn cầu. Tiếp theo xuất hiện các đợt phục hồi yếu ớt với khối lượng thấp sau điểm SOW và giá tiếp tục giảm.
Trong trường hợp này chúng ta thấy các dấu hiệu phân phối nhỏ nằm trong một sự phân phối lớn. Trước đó đã xuất hiện các tín hiệu của sự phân phối (đường đứt đoạn màu dỏ). Và có một đợt phân phối tiếp theo và đây là một đợt phân phối hoàn chỉnh trong giai đoạn phân phối lại này (Tháng 6 đến tháng 11).
Lưu ý rằng sự biến động giá được mở rộng khi giá vận động ở khu vực đường hỗ trợ trước khi breakdown. Sự biến động giá lỏng ở giai đoạn này báo hiệu rằng giá sẽ chuẩn bị chuyển sang giai đoạn downtrend chính thức.
Trong thời thời gian phân phối lại giá vận động ở một nền giá mới thấp hơn. Trong trường hợp này là ở ngay dưới giai đoạn phân phối lại trước đó. Việc giá được đỡ bởi smart money ở mức giá 40-44 nhằm mục đích để họ bán nhiều hơn, Rõ ràng là CSCO đang ở trong một xu hướng downtrend và lúc này nhiều nhà đầu tư mới nhận ra và tranh nhau bán.
Đợt phân phối thứ 2 có thời gian ngắn hơn và có cấu trúc khác so với lần trước đó. Giá ở giai đoạn này vận động trong một phạm vi thấp hơn giai đoạn trước. Điều này có nghĩa rằng smart money đang tích cự bán mạnh hơn ở mức giá tại đường kênh trên. Sau khi giá tại LPSY giảm với biên độ giá rộng và khối lượng lớn sẽ làm cho giá có thể phá vỡ một cách dễ dàng các mức hỗ trợ. Ngoài ra, đây là nơi mà ICE bị xuyên thủng. ICE là đường nối các đáy liền kề được để xác định hướng đi của xu hướng. Khi ICE bị phá vỡ, vùng hỗ trợ bị phá vỡ và giá sẽ không thể hồi phục trở lại phía trên đường ICE này. Lúc này đường ICE chuyển từ đường hỗ trợ thành đường kháng cự mới. Hãy quan sát cách giá cố gắng hồi phục trở lại đường ICE một vài lần nhưng thất bại. ICE lúc này trở thành một đường kháng cự rất mạnh.
Giai đoạn phân phối thứ 3 là ngắn nhất, kéo dài khoảng 2 tháng. Nó bắt đầu với điểm SCLX nhỏ. Đường kháng cự được vẽ bởi 2 đỉnh PSY và BCLX, tại đây khối lượng giao dịch rất cao. (điểm dừng). Hãy để ý đến khối lượng và biên độ giá ở những đợt hồi phục lên LPSY. Khối lượng thấp và giảm dần, biên độ giá hẹp. Đây là một đợt hồi phục yếu. Khối lượng sau khi giảm từ LPSY trở lại đường hỗ trợ thì khối lượng lại tăng. Tại đường hỗ trợ lại xuất hiện một đợt hồi phục yếu sau đó giá giảm phá vỡ đường kháng cự và thoát hẳn ra ngoài vùng tích lũy với 1 GAP. Chúng tôi đánh giá điểm GAP này chính là điểm phá vỡ đường ICE. Giai đoạn phân phối lại đã hoàn thành.
Chúng ta thấy xuất hiện 3 lần phân phối lại trong suốt xu hướng downtrend, mỗi lần hình thành ở một nền giá thấp hơn nền giá phân phối trước. Hãy xem sự khó khăn của những người mở vị thế short. Một xu hướng downtrend mới sẽ bắt đầu sau một giai đoạn phân phối lại rồi lại dừng lại trong nhiều tuần và nhiều tháng. Nếu nhà đầu tư mở vị thế short ở đường hỗ trợ thì họ sẽ rất dễ bị mặc kẹt vì giá lại hồi phục trở lại. Ở những nhịp phân phối lại, sẽ xuất hiện rất nhiều khuyến nghị của tin tức hay các Chuyên gia về cơ hội mua cổ phiếu với mức giá rẻ, nhưng các nhà đầu tư nhỏ lẻ đều bị lừa. Đây chính là lý do tạo nên các đường hỗ trợ trong xu hướng downtrend và giúp cho smart money phân phối trong một thời gian dài.
Lưu ý rằng sau khi phân phối lại lần 3, đây là lúc bắt đầu một xu hướng downtrend chính thức. Các nhà đầu tư nhỏ lẻ bị lừa mua ở mức giá cao bắt đầu tranh nhau bán hàng ra để cắt lỗ. Đường kênh xu hướng downtrend được vẽ xác định biên độ của giá trong downtrend. Sau khi kết thúc giai đoạn phân phối thứ 3 là thời điểm thích hợp để mở vị thế short. Tại sao một đợt phân phối ngắn lại dẫn đến một xu hướng downtrend dài nhất? Mỗi giai đoạn trong 3 giai đoạn phân phối mà chúng ta thấy là lúc smart money bán được nhiều hơn vào tay nhỏ lẻ. Điều này dẫn đến giá giảm kéo dài.
Sau một loạt các đợt giảm giá mạnh và khi xuất hiện những phiên giảm mạnh với khối lượng lớn là lúc báo hiệu đà giảm sắp dừng lại. Trên biểu đồ theo khung thời gian ngày ở trên chúng ta thấy kênh xu hướng giảm đã bị mở rộng sau khi xuất hiện điểm SCLX và xuất hiện sự hồi phục ra khỏi đường kênh.
Lưu ý sự vận động của giá ở giai đoạn cuối của đợt giảm giá. Đây là một đợt markdowm quy mô lớn. Khối lượng và biên độ giá giảm rất lớn ở giai đoạn cuối cùng của đợt suy giảm, và khi giao dịch ở đây trở lên cực đại. Đây là cơ hội cuối cho ai mở vị thế short trước đó mua lại hàng và đóng vị thế. Các đợt hồi phục từ SCLX đến BCLX tăng khoảng 100%. Chúng ta phải thừa nhận rằng rất nhiều nhà đầu tư nhỏ lẻ đã mắc bẫy và mua cổ phiếu ở những mức giá cao trước đó. Do đó, giá cổ phiếu có thể test lại mức thấp nhất SCLX và khó khả năng giảm thấp hơn để những nhà đầu tư nhỏ lẻ cuối cùng cũng phải bán cổ phiếu. Trên biểu đồ chúng ta thaấy đáy tháng 4 đã được test lại vào tháng 9.
Điểm BCLX giá tăng vọt lên đường trên của kênh xu hướng với khối lượng lớn. Sau đó giá giảm mạnh sau đó xuất hiện các đợt hồi phục với biên độ hẹp và khối lượng thấp. Giai đoạn này là phân phối đợt 4 vì nó xuất hiện các đặc tính của một giai đoạn phân phối. Hai LPSY tạo ra các đỉnh sau thấp hơn đỉnh trước và là điểm tốt nhất để bán. Sau đó xuất hiện một đợt suy mạnh mạnh về vùng đáy của là SCLX..
Mỗi giai đoạn phân phối lại có một hình dạng khác nhau. Bằng cách nghiên cứu các ví dụ điển hình này sẽ giúp chúng ta nhanh chóng nâng cao kỹ năng của mình và tránh được những giao dịch thất bại.
