Mục lục
I. Lý thuyết & các khái niệm
1. Định nghĩa
Tích lũy là quá trình smart money mua cổ phiếu với khối lượng nhiều nhất có thể mà không làm giá cổ phiếu tăng lên, quá trình tích lũy sẽ diễn ra đến khi lượng cung trên thị trường ở vùng giá đó còn rất ít. Việc mua vào này thường diễn ra sau một giai đoạn downtrend mạnh.
Đối với smart money, mức giá càng thấp họ càng mua vào. Không phải tất cả các cổ phiếu ngay khi niêm yết đều được tích lũy ngay lập tức, vì hầu hết các cổ phiếu khi lên sàn đều tăng. Ví dụ, các ngân hàng giữ lại cổ phiếu đang bị cầm cố, các ông chủ giữ lại cổ phiếu để kiểm soát công ty. Đây sẽ là nguồn cung tương lại mà smart money sẽ mua ở những vùng giá thấp.
Một khi hầu hết các cổ phiếu đã được gom bởi smart money, sẽ có rất ít hoặc không có cổ phiếu trôi nổi trên thị trường, điều đó khiến cho quá trình đẩy giá sau đó không bị cản lại bởi lực cầu lớn bán ra. Ở thời điểm này (thời điểm không còn cung), các mức kháng cự sẽ được điều chỉnh lên mức cao hơn. Nếu sự tích lũy diễn ra ở nhiều cổ phiếu trên thị trường với nhiều smart money khác nhau, ở cùng một thời điểm(Thị trường xuất hiện các điều kiện thuận lợi) giá sẽ bắt đầu được đẩy lên và bắt đầu xu hướng uptrend của thị trường chung.
Nếu bạn sử dụng thành thạo phương pháp của Wyckoff bạn sẽ có khả năng dự đoán và đánh giá chính xác xu hướng và cường độ vận động của giá trong giai đoạn tích lũy. May mắn là Wyckoff cung cấp các hướng dẫn để xác định và phân định các giai đoạn và sự kiện trong một giai đoạn tích lũy, việc này sẽ cung cấp cơ sở để bạn có thể ước tính các mục tiêu giá trong xu hướng tiếp theo.
Một xu hướng dài hạn cần phải có giai đoạn tích lũy với số lượng cổ phiếu đủ lớn trước khi bắt đầu xu hướng uptrend. Điều này phải được thực hiện một cách bí mật. Do đó tích lũy là một quá trình phải diễn ra theo logic, tuần tự mà chúng ta có thể phát hiện ra. Biểu đồ là một công cụ bạn sử dụng để theo dõi hoạt động của smart money. Tích lũy là quá trình chuẩn bị cho giai đoạn uptrend.
Những tín hiệu kết thúc của quá trình downtrend là dấu hiệu smart money xuất hiện để bắt đầu tích lũy cổ phiếu. Khi xuất hiện những tín hiệu này vẫn chưa đủ an toàn để bạn bắt đầu tham gia mua vào, chúng ta nên chờ xuất hiện những tín hiệu xác nhận đã kết thúc giai đoạn tích lũy. Ngoài việc đọc những bài phân tích các biểu đồ trong sách này, bạn cũng nên tự tìm kiếm các cổ phiếu có dấu hiệu tương tự trong quá khứ để rèn luyện kỹ năng của bạn. Cách tốt nhất là bạn xem lại dữ liệu trong quá khứ của thị trường chung ở những giai đoạn downtrend, sau đó tìm các cổ phiếu tạo đáy trước hoặc cùng thị trường.
2. Hành động dừng lại của xu hướng downtrend
Xu hướng downtrend xuất hiện khi Cung lớn hơn Cầu. Cổ phiếu tự do là tổng số cổ phần được nắm giữ bởi các nhà đầu tư và các nhà đầu tư trên sàn chứng khoán. Ngoại trừ số cổ phần được bán cho đối tác hoặc những cổ phần phát hành cho đối tác thì số cổ phần tự do chuyển nhượng tương đối ổn định.
Vậy tại sao lại có sự biến động tăng hoặc giảm? Wyckoff tin rằng đó là sự thay đổi về chất việc sở hữu số cổ phần tự do (Tức là tổng số không đổi nhưng đã chuyển từ tay người này qua tay người khác). Chất lượng của những người sở hữu cổ phiếu sẽ quyết định đến giá cổ phiếu. Nếu người sở hữu có chất lượng cao thì giá sẽ cao. Nếu chất lượng thấp thì giá sẽ dễ bị tổn thương. Ai đang kiểm soát lượng cổ phiếu trôi nổi này? Nó đang ở trong tay những nhà đầu tư mạnh hay yếu? Đó là những câu hỏi mà bạn luôn phải tìm câu trả lời trong khi bạn đầu tư hoặc giao dịch cổ phiếu.
Giá cổ phiếu giảm thể hiện chất lượng người sở hữu nó kém. Wyckoff cho biết, cổ phiếu giảm tức là nó đang được sở hữu bởi những nhà đầu tư yếu (Week Holder). Trong trường hợp này, giá cổ phiếu có thể sẽ giảm liên tục trong một thời gian dài. Sự thay đổi như thế nào sẽ làm kết thúc quá trình downtrend? Sau nhiều tháng downtrend, ở giai đoạn cuối cùng sẽ xuất hiện sự hoảng loạn. Khi sự biến động tăng lên, giá sẽ giảm mạnh. Biên độ giá trong ngày có thể lớn gấp 3-4 lần biên độ giá ở những thời điểm giao dịch bình thường kèm với khối lượng rất lớn.
Quá trình giảm mạnh này sẽ làm cho các nhà đầu tư hoảng loạn. Nhiều người đang tìm cách bán tháo cổ phiếu mình đang nắm giữ. Sự biến động này có thể kèm theo sự xuất hiện của các thông tin tiêu cực về doanh nghiệp hoặc của nền kinh tế. Điều này sẽ tạo thêm tâm lý hoảng loạn. Toàn bộ thị trường có thể bị tác động tâm lý bởi sự suy giảm này. Sự giảm giá ở các cổ phiếu dẫn đầu có thể dẫn đến việc bán tháo ở toàn thị trường, đặc biệt là lực bán mạnh ở các tài khoản sử dụng margin cao.
Việc bán tháo có thể diễn ra trong nhiều ngày và nhiều tuần. Sau một giai đoạn giảm mạnh sẽ xuất hiện phiên Selling Climax. Đây là một ngày giao dịch với khối lượng cao đột biến so với những ngày trước đó (hoặc tuần trước đó). Một thuộc tính của quan trọng của phần lớn những phiên Climax là giá giao dịch trong phiên ở mức rất thấp kèm khối lượng lớn nhưng cuối phiên lại đóng cửa ở phần trên mức giá trung bình trong ngày. Đây là một ngày rất quan trọng. Ngày này được gọi là CLX. Đây là tín hiệu cho biết nhiều khả năng smart money đã bắt đầu tham gia mua vào phần lớn nguồn cung giá rẻ ở phiên này. Bạn sẽ cần theo dõi sự vận động của giá trong những phiên tiếp theo để có thể đưa ra những phân tích phù hợp.
Việc phân tích biểu đồ giá ở phiên này và những ngày sau đó là cách để bạn xác định xem liệu khối lượng giao dịch lớn trong ngày CLX có phải là của smart money hay không, có phải họ đã bắt đầu tham gia trở lại và hấp thụ hết lượng cung giá rẻ trong phiên hay không? Sự hấp thụ này có thể mất vài tuần thậm chí vài tháng và đó là tín hiệu tốt. Khi xuất hiện tín hiệu CLX chúng ta sẽ theo dõi chặt chẽ sự biến động giá để sẵn sàng tham gia giao dịch cùng với smart money khi họ bắt đầu đẩy giá cổ phiếu lên.
3. Sơ đồ mô phỏng 2 kiểu tích lũy và các thuật ngữ

Sơ đồ giai đoạn tích lũy #1.
Đây là sơ đồ vẽ một số đặc điểm trong giai đoạn tích lũy. Trong thực tế sự vận động giá có thể có nhiều biến thể so với sơ đồ này, vì vậy việc xác định các đặc tính chính là yếu tố quan trọng kho đọc biểu đồ. Bạn sẽ phải liên tục so sánh biểu đồ giá thực tế với sơ đồ lý thuyết này để nghiên cứu để phát hiện ra các điều kiện và tín hiệu thực tế.
Trong kiểu tích lũy ở đây có sự xuất hiện của phiên đảo chiều (Spring), đây cũng có thể được goi là phiên rũ bỏ (Shakeout).

Sơ đồ giai đoạn tích lũy #2.
Sơ đồ tích lũy số 2 minh họa trường hợp giá được test lại vùng hỗ trợ bằng cách tạo ra đáy cao hơn ở phiên Spring trong sơ đồ số #1. Đây được gọi là phiên điểm hỗ trợ cuối cùng (LPS) vì đây là điểm mà tại đó giá đã không giảm nữa và nó vẫn nằm trong vùng tích lũy. Mức giá thấp tại phiên này là điểm dừng cuối cùng trước khi xuất hiện phiên tăng giá vượt ra khỏi nền tích lũy tạo ra một xu hướng uptrend.
Giải thích các thuật ngữ:
PS – Preliminary Support (Điểm hỗ trợ đầu tiên ở cuối một xu hướng downtrend)
Đây là điểm bắt đầu xuất hiện lực Cầu mua vào và tạo ra một mức hỗ trợ đầu tiên sau một giai đoạn downtrend. Khối lượng giao dịch tăng lên và biên độ giá lớn, điều này cho thấy xu hướng giảm có thể sắp kết thúc.
SC – Selling Climax (Điểm quá bán)
Đây là điểm mà ở đó biên độ giá và áp lực bán lớn nhất. Lúc này áp lực bán rất lớn (sự hoảng loạn) của đám đông theo tâm lý bày đàn và lực bán này được hấp thụ bởi smart money ở đáy hoặc gần đáy. Thường thì giá đóng cửa cao hơn mức giá thấp nhất trong phiên (rút chân) trong điểm SC, điều này có nghĩa là lực bán ra được hấp thụ bởi smart money.
Thanh thấp nhất cuối cùng thường là thanh hẹp hoặc nó có thể là một thanh dài nhưng với đóng ở trên giữa thanh. Điều này sẽ báo hiệu rằng áp lực giảm đã bị hấp thụ hết bởi lực cầu của smart money.
Dưới đây là minh họa trường hợp cụ thể của SC.

AR – Automatic Rally (Sự hồi phục tự nhiên)
Hiện tượng này xuất hiện vì lực bán mạnh đã giảm đi rất nhiều. Chỉ cần một lực cầu nhỏ cũng dễ dàng đẩy giá tăng lên. Mức giá cao nhất của đợt hồi phục này là điểm để xác định đường kháng cự của một giai đoạn tích lũy.
ST – Secondary Test (Điểm test cung thứ 2)
Tức là giá sẽ điều chỉnh giảm trở lại khu vực đáy của điểm SC với mục đích là test lại mức cân bằng giữa Cung – Cầu ở vùng giá đó. Nếu đáy được xác nhận, khối lượng và biên độ giá sẽ giảm đáng kể so với điểm SC khix giá tiếp cận gần đường hỗ trợ. Thông thường sẽ có nhiều phiên test như vậy sau điểm SC.
Springs hoặc Shakeouts thường xảy ra ở giai đoạn sau của giai đoạn tích lũy, đó là những phiên smart money rũ bỏ các nhà đầu tư nhỏ lẻ trước khi bắt đầu chuyển sang giai đoạn uptrend. Một phiên spring thường có mức giá thấp nhất thấp trong phiên phá vỡ đường hỗ trợ nhưng giá đóng cửa tăng trở lại trên đường hỗ trợ. Hành động này chính là hành động của smart money nhằm mục đích đánh lừa những nhà đầu tư nhỏ lẻ để họ nghĩ rằng xu hướng giảm tiếp tục và cũng là để mua được thêm cổ phiếu với mức giá hời. Một phiên shakeout ở đoạn cuối của giai đoạn tích lũy giống như một phiên Spring nhưng mạnh hơn nhiều. Phiên Shakeouts cũng có thể xuất hiện khi quá trình đẩy giá đã bắt đầu, với một tốc độ giảm nhanh và mạnh khiến cho các nhà đầu tư nhỏ lẻ không giữ được hàng và bán hết ra cho smart money. Tuy nhiên phiên Spring và Shakeout không phải là tín hiệu bắt cuộc phải xuất hiện: Sự tích lũy theo sơ đồ số #1 mô tả một phiên Spring, trong khi ở sơ đồ số #2 là giai đoạn tích lũy mà không có phiên Spring.
Có 03 loại Spring:
- Spring số 1: Đánh đồng giá. Đây là phiên Spring kèm khối lượng lớn hơn rất nhiều ở những lần giảm trước đó trong vùng tích lũy. Chúng ta sẽ không mở vị thế mua ở phiên Sping kiểu này. Thay vào đó chúng ta sẽ bán hàng ra (mở vị thế short) nếu sau phiên Spring này giá không thể hồi phục vượt qua đường hỗ trợ (lúc này đường hỗ trợ trở thành đường kháng cự mới), đặc biệt nếu phiên sau giá hồi phục lại yếu (không vượt qua được đường hỗ trợ) với 1 nửa khối lượng khi bắt đầu phiên Spring (Xem dữ liệu khối lượng lớn nhất ở mức giá nào).
- Spring số 2: Kiểu Spring này có khối lượng cao hơn ở kiểu số 3. Điều này cho thấy vẫn còn lượng cung lớn ở mức giá này vì vậy sẽ cần xuất hiện phiên ST ở đường hỗ trợ thì mới xác nhận tín hiệu mua. Sau khi giá Breakdown qua đường hỗ trợ thì giá đóng cửa quay trở lại trên đường hỗ trợ. Lý tưởng nhất là khối lượng ở đợt giảm nhỏ hơn khối lượng khi giá hồi phục trở lại trong phiên và cũng lớn hơn khối lượng các đợt hồi phục trước đó trong vùng tích lũy. Phiên ST xuất hiện sau đó là thành công nếu giá điều chỉnh khoảng 1/3 mức giảm phiên Spring kèm theo khối lượng thấp.
- Spring số 3: Đây là phiên Spring mà giá giảm qua đường hỗ trợ nhưng mức giảm không cao kèm theo khối lượng thấp. Đây là tín hiệu cho thấy cung đã cạn kiệt. Nếu xuất hiện kiểu Spring này chúng ta có thể mua ngay mà không cần chờ phiên test ST thành công.
Test – Smart money luôn sử dụng các phiên test cung trong suốt quá trình tích lũy và tại các điểm chính trong một giai đoạn tăng giá. Nếu xuất hiện một lượng cung lớn ở các phiên test cung, điều đó có nghĩa là giá chưa sẵn sàng để đẩy lên mức cao hơn. Một phiên Spring thường được theo sau bởi một hoặc nhiều phiên test cung; một phiên test cung thành công (Có nghĩa là giá chuẩn bị tăng) thường có khối lượng giao dịch giảm khi giá bị điều chỉnh và tạo đáy cao hơn đáy của phiên spring.
SOS – Sign Of Strength (Chỉ số sức mạnh) là phiên tăng giá với biên độ rộng kèm theo khối lượng tăng cao. Thường một phiên SOS xuất hiện sau phiên Spring, đây chính là tín hiệu xác nhận hành động giá trước đó (nghĩa là xác nhận giá đã tạo đáy và chuyển sang giai đoạn tăng giá).
LPS – Last Point of Support (Điểm hỗ trợ cuối cùng) là mức giá thấp nhất của những phiên điều chỉnh sau khi xuất hiện phiên SOS. Và mức giá thường sẽ điều chỉnh về gần mức kháng cự trước đó với biên độ giá và khối lượng giảm. Trên một số biểu đồ, có thể có nhiều LPS.
BU – Back-Up. Đây là một thuật ngữ mang tính ẩn dụ đươc phát minh bởi Robert Evans, một trong những giáo viên hàng đầu của phương pháp Wyckoff từ những năm 1930 đến những năm 1960. Evans nói rằng phiên BU là việc giá vượt qua mức kháng cự, nhưng sau đó lại điều chỉnh trở lại mức kháng cự để test lại nguồn cung xung quanh mức kháng cự trước đó. BU là một phiên xuất hiện để test cung trước khi giá được đẩy lên mức cao hơn và có thể có nhiều dạng khác nhau, bao gồm một phiên điều chỉnh đơn thuần hoặc một giai đoạn tích lũy lại ở một nền giá cao hơn. Đây chính là kiểu phiên UT số 1 (Tham khảo 3 loại UT ở phần “giai đoạn phân phối”.
JAC – Jumper a Creek
Giá vận động khác nhau khi một xu hướng bắt đầu. Mỗi thanh giá chứa một ý nghĩa khác nhau trong giai đoạn sideway của giai đoạn tích lũy, và mỗi thanh bar lại có một ý nghĩa khác nhau khi một xu hướng bắt đầu. Một xu hướng lớn, dài được sinh ra trong quá trình tạo nền tích lũy. Bạn cần quan tâm đặc biệt đến sự vận động của giá để phát hiện ra sự thay đổi này như khi một xu hướng bắt đầu, và bắt đầu thực hiện chiến dịch của mình.
Trong vùng tích lũy, lực cung bán ra làm cho giá không thể tăng. Cung không phải là hiện tượng tuyến tính (Tức là lớn dần theo thời gian mà nếu được hấp thụ sẽ cạn dần).
Ví dụ lệnh đặt bán không bao giờ cố định ở một mức giá, chẳng hạn như 50$. Smart money hiểu rằng lượng cung lớn sẽ xuất hiện và làm kìm lại đà tăng và giá sẽ phải điều chỉnh trở lại đường hỗ trợ. Mỗi lỗ lực đẩy giá có thể gặp phải một lượng cung ở các mức giá khác nhau bên trong vùng tích lũy.
Chúng ta sẽ phân tích một câu chuyện về con lạch (sông hoặc ngòi). Câu chuyện này mô tả gần như tương tự khi nguồn cung xuất hiện trong vùng tích lũy. Câu chuyện kể về một người đàn ông đi bộ nhiều ngày dọc theo bờ sông. Để đến được đích, anh ta phải vượt qua con sông. Nhưng con sông (nguồn cung) quá rộng và nước chảy xiết khiến anh ta không thể nhảy qua bờ bên kia. Vì vậy, anh ta đi dọc theo con sông và tìm những đoạn đủ hẹp để anh ta có thể nhảy qua, anh ta dò nếu vẫn chưa đủ hẹp thì anh ta dừng lại và đi tìm tiếp những điểm tiếp theo. Cuối cùng anh ta cũng tìm được một đoạn sông đủ hẹp và nước không chảy xiết nữa đủ để anh ta nhảy qua nếu anh ta chuẩn bị đủ tốt (lấy đà). Tại nơi này, anh ta lùi ra xa bờ sông để lấy đà, và anh ta bắt đầu chạy thật nhanh để nhảy qua bờ bên kia, và anh ta thành công. Sau khi đã nhảy qua bờ bên kia, anh ta quay lại bờ sông, cởi đôi giày của mình ra và đặt chân xuống nước. Sau khi nghỉ ngơi, anh ta tiếp tục cuộc hành trình của mình. Lúc này, trong hành trình mới của anh ta sẽ không còn bị cản đường bởi con sông đó nữa.(giá tăng khỏi nền tích lũy).
Tất nhiên, câu chuyện này ngụ ý về nguồn cung xuất hiện gây cản trở quá trình đẩy giá lên. Nếu muốn đẩy giá thì phải đặt giá ở bên kia con sông. Con sông lúc rộng và nước chảy xiết miêu tả nguồn cung còn nhiều, và tại một thời điểm nào đó nguồn cung sẽ cạn dần giống như đoạn sông đủ hẹp để có thể nhảy qua. Một đường lượn sóng nối các đỉnh giá, nơi mà tại đó xuất hiện áp lực bán lớn khiến giá bị giảm trở lại. Điều này giống như các đoạn uốn khúc của con sông. Sẽ có một nơi mà tại đó giá cổ phiếu sẽ tăng trở lại (Điểm Spring hoặc điểm hỗ trợ cuối cùng), lúc đó giống như lấy đà để nhảy qua bên kia con sông, sự lấy đà tức là hấp thụ hết nguồn cung còn lại hoặc là phiên test cung. Điểm xuất hiện phiên break này giống như việc lấy đà, nó có một đặc điểm chung là thanh upbar với biên độ giá rộng kèm theo khối lượng lớn (Cầu áp đảo cung). Những đặc tính này của giá và khối lượng khác với những phiên test trước đó, điều này cho thấy báo hiệu xu hướng uptrend sắp bắt đầu. Smart money đang bắt đầu kế hoạch đẩy giá cho một xu hướng uptrend dài hạn, phương pháp của Wyckoff chắc chắn sẽ phát hiện ra điều này khi quan sát sự thay đổi của hành vi giá và khối lượng. Đây chính là thời điểm để bạn có thể mở vị thế mua đầu tiên.
Con sông được hình thành bởi hai bờ, một bờ sông thấp và một bờ sông cao (Tương tự như đường kháng cự và hỗ trợ trong vùng tích lũy). Phạm vi giá trong vùng tích lũy thường vận động ở giữa hai đường này. Khi đường kháng cự bị phá vỡ, giá cổ phiếu sẽ bắt đầu một xu hướng tăng.

Nguồn cung giống như như con lạch uốn khúc và tạo áp lực lên lỗ lực tăng giá trong suốt quá trình tích lũy. Ngườn bán luôn sẵn sàng bán ra cổ phiếu ở bất cứ mức giá thấp nào. Điều này sẽ được thể hiện trên biểu đồ với tín hiệu giảm giá. Trớ trêu thay trong lúc mọi người đang bi quan và tìm cách bán cổ phiếu thì smart money lại đang cố gắng hấp thụ. Hành động nhảy qua con sông (JAC) và quay trở lại bờ sông (BUEC – điều chỉnh về lại đường kháng cự) là các tín hiệu quan trọng trên biểu đồ. Chúng cho thấy cổ phiếu đã sẵn sàng để bắt đầu hành trình mới từ đường kháng cự trở lên.

Ở phiên BUEC nếu khối lượng thấp là một dấu hiệu tốt và chỉ ra sự thay đổi đặc tính của cổ phiếu, tức là tăng giá. JAC tương đương với một tín hiệu SOS và BUEC chính và LPS. Chúng có thể thay thế nhau.
Giá tăng từ điểm Spring #2 không phải là JAC khi khối lượng không tăng. JAC xuất hiện sau điểm Spring #2 khi khối lượng tăng lên đáng kể kèm theo giá tăng mạnh. Sau đó giá tăng vượt qua đường kháng cự với khối lượng tăng mạnh. Đây là một chỉ báo SOS.

Biểu đồ trên là của giá café. Đây là một ví dụ điển hình của JAC. Biểu đồ xuất hiện điểm Spring #2 với khối lượng tăng mạnh. Nhưng gần như ngay lập tức biên độ giá bị thu hẹp và khối lượng tăng lên khi giá tăng, Sau đó nó điều chỉnh trở lại dưới đường hỗ trợ với khối lượng cao trung bình. Điều này chứng tỏ vẫn còn nguồn cung. Bạn nên xem lại biểu đồ các cổ phiếu và tập tìm các điểm JAC và BUEC.
4. 5 giai đoạn tích lũy
Giai đoạn A:
Giai đoạn A đánh dấu sự dừng lại của xu hướng downtrend trước đó. Điểm PS là một dấu hiệu sớm chỉ ra việc xuất hiện một lực cầu lớn bắt đầu hấp thụ. Tại điểm này thì Cung vẫn lớn hơn Cầu. Điểm SCLX (quá bán) xuất hiện sau đó kèm theo biên độ giá lớn và khối lượng tăng mạnh. Những sự kiện này thường rất dễ phát hiện khi quan sát trên đồ thị giá, khi mà xuất hiện những phiên có biên độ giá rộng và khối lượng lớn, điều này có nghĩa là phần lớn nguồn cung đã được hấp thụ bởi Smart money.
Áp lực bán ở phiên SCLX không duy trì lâu kèm theo việc xuất hiện lực cầu mua khiến cho giá hồi phục trở lại trong ngắn hạn. Các điểm AR chỉ ra rằng SCLX đã hoàn thành. Giai đoạn A được kết thúc khi giá được test lại vùng SCLX và được gọi là ST. Một phiên điều chỉnh test lại vùng giá của SC được gọi là thành công khi áp lực bán đã ít đi tức là biên độ giá hẹp dần và khối lượng ít dần, thường tạo đáy cao hơn hoặc bằng với đáy của phiên SC. Nếu phiên ST có đáy thấp hơn ở phiên SC thì điều này cho ta tín hiệu xu hướng giảm chưa dừng lại và có thể giảm về mức thấp hơn. Đáy của SC và ST sẽ tạo lên đường hỗ trợ trong một giai đoạn tích lũy; tương tự như vậy mức giá cao nhất của phiên AR các định mức kháng cự. Các đường ngang có thể được vẽ để giúp bạn tập trung vào hành vi của thị trường, như trong hai sơ đồ tích lũy ở trên.
Đôi khi xu hướng downtrend có thể kết thúc sớm hơn mà không xuất hiện đầy đủ các tín hiệu như trên. Tuy nhiên sẽ tốt hơn nếu bạn thấy xuất hiện đầy đủ các tín hiệu PS, SC, AR và ST vì chúng không chỉ mang lại một quy luật vận động trên biểu đồ một cách rõ ràng mà còn là dấu hiệu rõ ràng để cho thấy smart money đã bắt đầu tham gia trở lại bằng cách tích lũy mua lại cổ phiếu.
Lưu ý: Trong một giai đoạn tích lũy lại (Xảy ra khi cổ phiếu đang trong xu hướng uptrend), các điểm PS, SC và ST không cần xuất hiện trong giai đoạn A. Thay vào đó, trong các trường hợp như vậy, giai đoạn A trong quá trình tích lũy lại tương tự như trong quá trình phân phối (Tham khảo phần dưới). Các giai đoạn B-E trong quá trình tích lũy lại tương tự như trong giai đoạn tích lũy ở nền 1 nhưng thường có thời gian ngắn hơn và biên độ nhỏ hơn so với trong giai đoạn tích lũy ở nền thứ nhất. Giai đoạn tích lũy lại được trình bày trong phần giai đoạn uptrend.
Giai đoạn B:
Trong phương pháp phân tích của Wyckoff, Giai đoạn B chính là giai xây dựng một “nguyên nhân” (Chính là tạo nền tích lũy) cho một xu hướng tăng mới (Tham khảo phần quy tắc số 2 – “Cause and Effect”).
Đặc điểm của giai đoạn này là xuất hiện sự biến động giá mạnh với biên độ giá lớn ở đầu giai đoạn B, biên độ giá sẽ hẹp dần ở cuối giai đoạn này. Sự biến động mạnh trong giai đoạn này nhằm mục đích rũ bỏ những nhà đầu tư vẫn nắm giữ hàng ở giai đoạn A. Đây là giai đoạn xuất hiện sự hấp thụ chính. Bạn cần quan sát xem sự hấp thụ ở giai đoạn này có hiệu quả hay không, tức là lực cầu hấp thụ có đủ mạnh và lượng cung đã được hấp thụ nhiều chưa.
Miễn là nguồn cung vẫn còn ở giai đoạn này thì sự hấp thụ hiệu quả sẽ tạo ra một nguyên nhân rất lớn cho hệ quả tăng sau này. Hãy sử dụng các đường kháng cự và hỗ trợ để xác định vùng giá vận động trong giai đoạn này. Việc so sánh thời gian (số phiên) và mức độ hồi phục cũng như điều chỉnh trong giai đoạn B sẽ giúp bạn biết được các tín hiệu sớm của mức độ hấp thụ tăng lên (Nguồn cung đã hấp thụ nhiều hay ít).
Trong giai đoạn B, Smart money tiến hành mua cổ phiếu trên thị trường ở mức giá thấp để chuẩn bị cho giai đoạn đẩy giá sau này. Quá trình tích lũy này có thể mất một khoảng thời gian dài (đôi khi mất hàng năm hoặc lâu hơn), họ tiến hành mua vào cổ phiếu với giá thấp và bán ra một lượng cổ phiếu có sẵn để test cung. Thường sẽ có nhiều phiên ST trong giai đoạn B, cũng như việc xuất hiện các phiên tăng lòng tin ở quanh đường kháng cự. Nhìn chung, Smart money tiến hành mua ròng cổ phiếu trong suốt quá trình tích lũy với mục đích là nắm giữ số lượng lớn cổ phiếu trôi nổi trên thị trường, số lượng càng nhiều càng tốt. Hành động mua gom làm tăng giá và bán ra để đạp giá ở giữ mức kháng cự và hỗ trợ là một tín hiệu đặc trung trong giai đoạn tích lũy.
Ở những thời điểm đầu của giai đoạn B biên độ giá thường rộng kèm theo khối lượng lớn. Vì smart money hấp thụ nguồn cung bán ra, tuy nhiên khối lượng ở những phiên giảm trong giai đoạn tích lũy thường có xu hướng giảm. Khi nguồn cung bắt đầu cạn kiện, đây là dấu hiệu của việc chuẩn bị chuyển sang giai đoạn C.
Giai đoạn C:
Giai đoạn C sự hấp thụ gần như hoàn tất và ở giai đoạn này xuất hiện các phiên test cung của Smart money mục đích là để kiểm tra xem cổ phiếu đã sẵn sàng cho giai đoạn đẩy giá hay chưa. Như đã nói ở trên, phiên Spring là phiên có mức giá thấp nhất thấp hơn đường hỗ trợ nhưng giá đóng cửa nhanh chóng quay trở lại cao hơn mức hỗ trợ. Đây là một bẫy giảm giá (Bear Trap) nhằm bẫy những nhà đầu tư nhỏ lẻ bán hàng ra và để smart money mua thêm được cổ phiếu giá rẻ. Trong phương pháp của Wyckoff, những phiên test cung thành công sau phiên đảo chiều – Spring (hoặc phiên rũ bỏ – Shakeout) chính là những phiên cho điểm mua đầu tiên có khả năng đem lại mức lợi nhuận rất tốt. Một phiên Spring có khối lượng giao dịch thấp (Hoặc phiên Shakeout với khối lượng thấp) chỉ ra rằng cổ phiếu có khả năng sẵn sàng để tăng giá, vì vậy đây là thời điểm tốt để bắt đầu tham gia mở vị thế mua 1 phần sức mua (kiểu Spring số 1).
Sau điểm Spring giá sẽ tăng lên và vẫn xuất hiện các phiên test nhưng các đáy sau thường cao hơn đáy trước. Phân tích của Wyckoff cho rằng những đáy cao cuối cùng trước khi giá vượt qua đường kháng cự là LPS và điểm này cũng quan trọng như điểm Spring. Việc test cung ở đường hộ trợ là hành động cuối cùng trước khi bắt đầu một xu hướng uptrend. Đây là mục đích chính của giai đoạn C.
Lưu ý: ở trong sơ đồ tích lũy số #2, việc test cung có thể xảy ra ở đường kháng cự mà không xuất hiện phiên Spring hoặc Shakeout; trong trường hợp này việc xác định giai đoạn C có thể sẽ khó khăn.
Giai đoạn D:
Việc test cung thành công ở vùng giá thấp nhất trong giai đoạn C chỉ ra rằng lượng cung còn rất ít, và chỉ cần một lượng cầu nhỏ cũng sẽ làm giá tăng lên. Giá cổ phiếu sẽ tăng lên khi xuất hiện lực cầu nhiều hơn và biên độ giá tăng mạnh hơn. Giai đoạn D chính là điểm cuối cùng của giai đoạn tích lũy. Giai đoạn C và D rất quan trọng và bạn có thể tiến hành mở vị thế mua sớm ở những giai đoạn này. Các thuật ngữ JAC và SOS biểu thị các hành động giá Breakout. Những phiên điều chỉnh với biên độ giá hẹp và khối lượng thấp được gọi là LPS hoặc BUEC. Trong giai đoạn D, lượng cung được kiểm soát hoàn toàn và các Smart money khác bắt đầu nhận ra dấu hiệu của một xu hướng uptrend mới. Điều này khiến họ chú ý đến cổ phiếu và bắt đầu mua vào, nhưng do nguồn cung đã cạn kiện nên lực mua này sẽ làm giá tăng lên rất mạnh và nhanh.
Điều này được xác nhận khi xuất hiện mẫu hình SOS với biên độ giá và khối lượng tăng, và vận động ở những điểm LPS sẽ có biên độ giá hẹp và khối lượng thấp. Trong giai đoạn D, giá ít nhất sẽ tăng lên đến mức kháng cự. Phiên LPS trong giai đoạn này thường là những điểm mua mới hoặc điểm mua gia tăng rất đẹp.
Phase E:
Đây là giai đoạn cổ phiếu đã thoát khỏi nền tích lũy và bắt đầu xu hướng uptrend. Lúc này Cầu vượt trội so với Cung và việc giá tăng là điều hiển nhiên. Những phiên điều chỉnh như shakeout và những kiểu điều chỉnh giá khác thường xuất hiện trong khoàng thời gian ngắn (vài phiên điều chỉnh hoặc thậm chí có thể điều chỉnh trong phiên).
Rèn luyện kỹ năng theo phương pháp Wyckoff
Không có phương pháp giao dịch nào thành công tuyệt đối. Vì vậy những nhà giao dịch thành công là những người có cách quản lý rủi ro tốt nhất. Phương pháp của Wyckoff giúp bạn quản lý rủi ra bằng cách tìm kiếm các tín hiệu của một cổ phiếu hàng đầu và có khả năng đem lại lợi nhuận tốt nhất.
Một số các tín hiệu được định nghĩa là: Cổ phiếu hồi phục Break khỏi kênh xu hướng giảm, hình thành giai đoạn tích lũy, hoàn thiện tích lũy với các phiên test cung cuối cùng bằng cách xuất hiện các Spring hoặc LPS sau đó giá tăng liên tục break khỏi nền tích lũy. Thông qua việc rèn luyện các kỹ năng quan sát các tín hiệu này bạn sẽ có khả năng rất tốt trong việc tìm kiếm và sở hữu những cổ phiếu có cơ hội đem lại lợi nhuận tốt nhất.
Để trở thành một người thành thạo phương pháp của Wyckoff và ứng dụng thành công trong thực tế, cách tốt nhất là bạn thực hành liên tục trên các biểu đồ trong quá khứ để tập tìm kiếm và xác định các dấu hiệu.
5. Cách giao dịch trong giai đoạn tích lũy
Phương pháp Wyckoff hoàn chỉnh bao gồm tất cả các quy tắc và hướng dẫn cách xác định thời điểm tham gia giao dịch, sau khi tham gia giao dịch thì nắm giữ trong bao lâu, khi nào thì thoát hết trạng thái nắm giữ. Chúng ta đã nghiên cứu các hành động dừng (stopping action), xây dựng nguyên nhân và kết quả. Trong giai đoạn tích lũy cũng như phân phối sẽ xuất hiện một điểm đảo chiều mà tại nó giá kết thúc một xu hướng và chuyển sang một xu hướng khác. Chúng tôi gọi đó là sự thay đổi của đặc tính (CoC-change of Character) bởi vì giá đang ở điểm cong (đảo chiều). Phương pháp của Wyckoff chỉ khuyến nghị tham gia giao dịch ở chính điểm này khi mà giá đã sẵn sàng cho việc chuyển sang một xu hướng mới ngay lập tức.
Các nhà đầu tư thành công luôn biết kiên nhẫn chờ đợi cơ hội. Họ sẵn sàng chờ đợi trong một thời gian dài cho đến đúng thời điểm xuất hiện các tín hiệu đủ tin cậy để tham gia giao dịch. Họ sẽ bỏ qua các cơ hội khi mà thị trường chưa xuất hiện các tín hiệu xác nhận một xu hướng rõ ràng.
Phương pháp của Wyckoff tìm kiếm các điều kiện cụ thể để tìm kiếm vị trí của một cổ phiếu. Có các quy tắc nhất định trong cách xuống tiền theo tỉ lệ (tăng vị thế dần theo tỉ lệ chiến thắng 6,25% -> 12,5% -> 25%), điểm dừng lỗ và dự đoán mức giá kỳ vọng. Thường điểm mua sẽ xuất hiện trong giai đoạn C ở phiên spring hoặc ở những phiên LPS trong giai đoạn E.
Việc mua cổ phiếu thường sẽ có 03 đợt mua. Mỗi đợt mua sau giá phải cao hơn đợt mua trước. Đây chính là nguyên tắc rất quan trọng, nguyên tắc chỉ mua trung bình giá lên chứ không mua trung bình giá xuống. Các điểm cụ thể trong giai đoạn C và D là các điểm lý tưởng để xác các điểm mua cho đến khi mua đủ lượng cổ phiếu.
Khi bạn thành thạo phương pháp này, bạn sẽ thành thạo trong việc xác định những điểm mua khi tham gia giao dịch. Điều này sẽ giúp bạn dễ dàng chuyển từ trạng thái chờ đợi sang trạng thái bắt đầu tham gia mua mới. Bạn hãy tích cực học tập và rèn luyện thật nhiều bạn sẽ đạt được các kỹ năng này.
Triết lý của phương pháp này là:
- Mua đúng điểm
- Xác định trước mức giá cắt lỗ. Điều này sẽ giúp bạn xây dựng được một phương pháp giao dịch tuyệt vời.
Sơ đồ tích lũy số 1 cho ta thấy xuất hiện một giai đoạn tích lũy, trong giai đoạn này Smart money đang hấp thụ một lượng lớn cổ phiếu trôi nổi trên thị trường. Khi việc hấp thụ cổ Phiếu gần hoàn thành, sẽ xuất hiện các phiên test cung cuối cùng ở đường hỗ trợ trước khi giá Break khỏi nền tích lũy và vào giai đoạn uptrend. Đây là giai đoạn C. Một Spring được mô tả trên sơ đồ trên. Các kiểu test cung ở giai đoạn D sẽ được tìm hiểu trong những phần sau.
Hãy để ý sự vận động của giá ở khi kết thúc Spring, nó xuất hiện CoC. Giá bắt đầu tăng từ điểm Spring lên đường kháng cự của giai đoạn tích lũy và Breakout khỏi nền tích lũy. Đây là điểm bắt đầu của một xu hướng uptrend.
Trong 4 giai đoạn thì giai đoạn C và D xuất hiện các điểm mua lý tưởng là :
Điểm mua 1:
- Mua tại phiên Spring#3 hoặc và điểm test cung của Spring#2.
Điểm mua 2:
- Mua tại điểm LPS (thường xuất hiện nhiều điểm LPS và các LPS sau có đáy cao hơn LPS trước).
Điểm mua 3:
- Điểm mua tiếp theo là khi giá Break khỏi mức giá cao nhất của phiên BU hoặc SOS.
a. Cách mua ở kiểu tích luỹ số 1:

Trên đây là ví dụ về cổ phiếu GDX. Trên biều đồ chúng ta thấy GDX tạo điểm Spring#2 trong tháng 1 với khối lượng giảm dần. Đây chính là kiểu Spring#2, nó được test lại trong 2 phiên sau Spring. Các phiên test lại của Spring#2 có thể là điểm mua thứ 1. Điểm mua thứ 2 là ở phiên xuất hiện LPS. LPS trong ví dụ này xuất hiện rất ngắn. Đây là một ví dụ sinh động về CoC xuất hiện trong giai đoạn C và D. Sau khi đã mở vị thế mua, bạn nên xác định điểm cắt lỗ ở ngay dưới mức giá thấp nhất của Spring, LPS hoặc BU.
Trên đây là ví dụ để so sánh với sơ đồ tích lũy số 1. Đây là giai đoạn tích lũy của Smart money. Bạn có thể thấy việc mua ở giai đoạn C khó khăn như thế nào khi mà giá tăng lên mỗi ngày. Và đây là lý do tại sao chúng ta phải chuẩn bị trước một kế hoạch để khi điểm mua xuất hiện còn kịp mở vị thế mua. Trong các phần tiếp theo chúng ta sẽ tìm hiểu về chiến thuật mua trung bình giá lên khi bắt đầu xu hướng uptrend.
Triết lý giao dịch kiểu rình rập
Bất kể bạn đầu tư ngắn hạn hay dài hạn, bạn đều phải xây dựng cho mình một chiến lược rõ ràng. Chiến lược phải được xây dựng bao gồm các bước hành động từ đầu đến cuối. Và chiến lược bao gồm cả kế hoạch quản lý vốn từ đầu đến cuối. Tức là bạn chuẩn bị sẵn tinh thần và tâm lý từ giai đoạn chờ đợi cơ hội, đến khi bắt đầu mở vị thế mua và khi bán hết cổ phiếu để thu về lợi nhuận.
Khi bạn xác định được một chiến lược giao dịch một cổ phiếu nào đó, bạn sẽ phải luôn theo dõi cho đến khi bắt đầu xuất hiện rủi ro.
Như đã nói, tôi chia kế hoạch mua một cổ phiếu làm 3 phần, mỗi phần 30% số vốn bạn dự định mua cổ phiếu đó (Lưu ý cách xác định tổng số lượng cổ phiếu mua nên nằm trong khoảng 10-20% khối lượng giao dịch trung bình 20 phiên). Đầu tiên phải xác định số vốn mình dự kiến sẽ bỏ ra mua cổ phiếu đó, sau đó chia nó làm 3 phần. Lần mua đầu tiên với 30% số vốn ban đầu. Bạn sẽ chỉ mua những lần tiếp theo nếu lần mua trước đó có lãi. Đây là cách bạn mua trung bình giá lên và luôn có tỉ lệ chiến thắng cao. Nếu lần mua sau bị lỗ thì bạn chỉ lỗ số tiền vốn của lần đó. Mức cắt lỗ tối thiểu sau lần mua thứ 2 hoặc 3 là mức giá mà bạn hòa vốn. Sau mỗi lần mua bổ sung, điểm cắt lỗ sẽ được nâng lên. Mục tiêu là tại điểm cắt lỗ mới chỉ có lần mua mới bị lỗ. Mục tiêu là để giảm thiểu nguy cơ bị lỗ.

Trên đây là một ví dụ về việc xây dựng kế hoạch giao dịch thông qua biểu đồ giá của cổ phiếu STLD.
Điểm mua 1: Spring#2 và phiên test ngay sau nó là điểm mua ban đầu. Hãy tìm những phiên test lại của điểm Spring#2 để mở vị thế mua đợt 1. Nếu sau phiên Spring không xuất hiện phiên test thì điểm mua 1 là khi giá Break qua đường hỗ trợ trước đó kèm khối lượng lớn và biên độ giá cao. Một thanh upbar với khối lượng lớn sẽ dẫn đến biên độ giá rộng kèm theo giá đóng cửa ở mức cao sẽ làm cho giá tăng lên một cách dễ dàng. Trong ví dụ này điểm mua đầu tiên ở mức 16.25 và mức giá cắt lỗ là 15 mức thấp hơn Spring (đáy Spring là 15.25).
Điểm mua 2: là khi kết thúc LPS ở mức giá 17.25. Sau khi mua lần 2 thì mức giá vốn trung bình là 16.75. Mức giá cắt lỗ ở điểm mua 2 là 16.75 (thấp hơn đáy LPS).
Điểm mua thứ 3: là sau khi giá Break khỏi nền tích lũy và test trở lại đường kháng cự trước đó (BUEC hoặc BU). Mức giá mua đợt 3 ở đây là 20 sau khi giá test lại đường kháng cự và đóng cửa trong phiên tăng trở lại với một khối lượng tích cực. Giá vốn trung bình sau 3 đợt mua là 17.83. Điểm cắt lỗ ở đây là 19. Bạn lưu ý, mức giá vốn trung bình của Smart money trong giai đoạn tích lũy sẽ ở khoảng trung bình của phạm vi giá tích lũy, Hiện tại STLD đã bắt đầu giai đoạn đẩy giá mạnh mẽ và lúc này chúng ta chỉ theo dõi và chờ khi nào xuất hiện các tín hiệu bán thì chúng ta bán cổ phiếu ra.
Việc thiết lập trước điểm cắt lỗ là phương pháp rất quan trọng để hạn chế rủi ro. Như chúng ta thấy trong trường hợp này. Ở điểm mua 1, mức lỗ chỉ là 1.25$. Ở lần mua thứ 2 và thứ 3 nếu giá quay về điểm cắt lỗ thì chúng ta vẫn còn lãi ở những lần mua trước đó và chỉ bị lỗ ở 30% đợt mua cuối cùng mà thôi.
b. Cách mua ở kiểu tích lũy số 2
LPS là đợt test cuối cùng ở gần đường hỗ trợ trước khi Break khỏi nền tích lũy và chuyển sang giai đoạn uptrend. Trong thực tế đa số LPS hầu như ở mức gần đường hỗ trợ tức là giá điều chỉnh giảm trở lại về gần đường hỗ trợ sau đó bật tăng trở lại. Spring là tín hiệu dễ nhận ra nhất vì nó tạo ta một mức giá thấp nhất của cả giai đoạn tích lũy, Một LPS sẽ tạo ra các đáy sau cao hơn đáy trước sau đó giá tiếp tục tăng. Một LPS là bước quan trọng để xác định và giao dịch. Spring hoặc LPS ở trong giai đoạn C chính là những phiên test cuối cùng ở đường hỗ trợ trươc khi giá Break khỏi nên tích lũy và bắt đầu xu hướng uptrend.

Kỹ năng đọc biểu đồ là một công cụ rất quan trọng trong phương pháp của Wyckoff để đưa ra các quyết định giao dịch trong ngày. Trên đây là biểu đồ giá của chỉ số INDU theo khung thời gian 30 phút. Trên hình chúng ta thấy xuất hiện các điểm LPS tiêu chuẩn. Một dấu hiệu SOS là giá cố gắng break khỏi đường kháng cự với khối lượng lớn. Dấu hiệu này chứng tỏ đang xuất hiện một lực cầu hấp thụ lượng cung trên thị trường. Sau SOS giá thường sẽ bị điều chỉnh trở lại vùng tích lũy và cố gắng điều chỉnh về đường hỗ trợ, Đây chính là thời điểm chúng ta thấy xuất hiện LPS. Sau SOS giá điều chỉnh giảm làm 2 đợt. Trên hình chúng ta thấy khối lượng cao đột biến ở thanh bar thấp nhất, đây là tín hiệu cho thấy lượng cung hàng đã được hấp thụ rất mạnh. Đây chính là tín hiệu của LPS. Nỗ lực test lại sau phiên LPS xảy ra liên tục 2 phiên sau đó nhưng thất bại với khối lượng rất thấp cho thấy không còn lượng cung nữa. Chúng ta có thể bắt đầu mua ở 2 thanh này. Sau LPS chúng ta thấy chỉ cần 2 thanh bar để giá bật tăng trở lại đường kháng cự, tại đây sau khi giá Break khỏi đường kháng cự xuất hiện BUEC ở gần đường kháng cự. Sau điểm mua ở LPS bạn hãy đặt mức giá cắt lỗ ở dưới đáy của ST.

Trong ví dụ của cổ phiếu ALB, SOS vượt qua đường kháng cự. Sau SOS chúng ta thấy giá điều chỉnh mạnh về lại đường hỗ trợ (Mức đáy gần nhất) tạo ra điểm LPS đầu tiên. Sau phiên LPS xuất hiện các phiên giá test lại đáy của LPS và xuất hiện một thanh upbar với khối lượng lớn kèm biên độ giá cao. Điểm mua đầu tiên là ở LPS thứ nhất và mức giá cắt lỗ dưới mức đáy của LPS. LPS thứ 2 xuất hiện với đáy cao hơn đáy ở LPS trước đó, đây là tín hiệu xác nhận rằng giai đoạn tích lũy đã kết thúc. Trong LPS thứ 2 hãy mở điểm mua thứ 2 ở bất cứ thanh bar nào tăng đầu tiên với khối lượng và biên độ cao. Nếu bạn không kịp mua ở điểm LPS đầu tiên thì điểm mua đầu tiên là LPS thứ 2. Hãy để ý LPS thứ 3, tại đây Smart money đang mua vào mạnh vì vậy giá sau khi Break khỏi đường kháng cự chỉ có thể test lại đường kháng cự trong phiên rồi tăng trở lại.
Sự suy giảm sau SOS là một đợt shakeout khó chịu của Smart money khiến cho rất nhiều nhà đầu tư nhỏ lẻ sẽ hoảng loạn và bán hết cổ phiếu mình đang nắm giữ. Chúng ta lấy LPS đầu tiên gần như bằng SCLX nơi mà Smart money bắt đầu tích lũy. Đây là mức giá mà họ muốn mua cổ phiếu, và thực tế trên biểu đồ đã chứng minh điều đó bằng cách giá ngừng giảm ở LPS=SCLX. Lưu ý ở đây là khi giá giảm từ SOS về LPS đầu tiên nhà đầu tư nhỏ lẻ rất hoảng loạn để bán ra, nhưng cũng chỉ làm giá giảm về đường hỗ trợ, và vẫn cao hơn đáy ở tháng 9-10.
II. Thực hành từ các ví dụ thực tế
Phần này chúng ta sẽ tiếp tục chủ đề xác định các điểm mua cổ phiếu tốt nhất bằng cách nghiên cứu các ví dụ thực tế. Tham khảo cách xác định các phiên PS; SC; AR; ST và cách kẻ đường khoáng cự và hỗ trợ để xác định vùng tích lũy.

Đây là biểu đồ giá theo khung thời gian tuần của cổ phiếu LVS. Trên biểu đồ chúng ta thấy cổ phiếu LVS có một xu hướng downtrend kéo dài trong 2 năm. Đường kênh xu hướng downtrend được xác định là hai đường kênh màu đỏ bằng 03 điểm khoanh tròn đỏ (Tham khảo cách vẽ đường kênh xu hướng trong phần giai đoạn uptrend và downtrend). Hãy để ý trong suốt xu hướng downtrend giá liên tục giảm rồi dừng rồi giảm. Cuối cùng khi xuất hiện các điểm quá bán ở PS và SCLX và Spring thì xu hướng giảm đã dừng lại và bắt đầu xuất hiện giai đoạn tích lũy từ điểm PS đến LPS,và cuối cùng giá Break khỏi đường kênh xu hướng một cách mạnh mẽ
Dưới đây là biểu đồ theo khung thời gian ngày để phân tích chi tiết giai đoạn tích lũy. Cổ phiếu LVS hình thành giai đoạn phân phối vào năm 2014 trước khi bắt đầu một xu hướng downtrend trong 2 năm. Sau khi giá ngừng giảm và chúng ta đã xác định được các điểm PS, AR và SCLX chúng ta sẽ vẽ đường kháng cự và hỗ trợ của giai đoạn này. Chúng ta thấy ở cuối giai đoạn tích lũy xuất hiện Spring ở đáy của SCLX. Đây là tín hiệu xác nhận đây là giai đoạn tích lũy.

Trên biểu đồ theo khung thời gian tuần chúng ta thấy LVS xuất hiện các phiên quá bán khi mà giá giảm thủng đường kênh dưới với khối lượng lớn sau đó lại hồi phục lại trong kênh. Sau đó chuyển sang biểu đồ khung thời gian ngày để xác định điểm bắt đầu hình thành giai đoạn tích lũy. Chúng ta thấy xuất hiện phiên UT tại vùng giá kháng cự. Và không xuất hiện sự tích lũy ở vùng giá này và giá điều chỉnh trở lại đường hỗ trợ. Hãy để ý trong giai đoạn điều chỉnh từ sau UT hình thành các đỉnh sau thấp hơn đỉnh trước. Nhưng tín hiệu kiểu này thường cho thấy giá sẽ giảm tiếp về các mức thấp hơn. Và tôi dự đoán có thể xuất hiện phiên Spring, và đúng như vậy. Một Spring#2 xuất hiện. Chúng ta có thể mở vị thế mua đầu tiên khi xuất hiện các phiên test lại Spring ngay sau đó. Giá LVS ngay lập tức tăng lên đỉnh trước đó với khối lượng lớn tạo ra tín hiệu CoC. Đây là một tín hiệu SOS và chúng ta hi vọng sẽ xuất hiện phiên test lại tạo lên điểm LPS. Sau SOS xuất hiện LPS, đây chính là điểm mua thứ 2. Hãy để ý cách giá điều chỉnh từ SOS về lại đúng mức giá PS=LPS, tức là một tín hiệu xác nhận chắc chắn đây là mức giá Smart money bắt đầu tích lũy. Sau lần mua đầu tiên ở Spring chúng ta đặt mức cắt lỗ ở mức giá thấp hơn đáy của Spring, tương tự với điểm mua thứ 2 ở LPS.

Ví dụ này minh họa giai đoạn tích lũy lại của cổ phiếu AHS sau một giai đoạn tăng giá trước đó. SCLX và AR tạo ra đường kháng cự và hỗ trợ của giai đoạn tích lũy lại. Giá cổ phiếu sau điểm AR quay đầu giảm liên tục và tạo các đỉnh sau thấp hơn đỉnh trước. Tín hiệu này cho chúng ta biết rằng sẽ xuất hiện các nổ lực để đạp giá giảm về đường hỗ trợ thậm chí giảm thủng đường hỗ trợ. Một phiên Spring xuất hiện sẽ làm giá đảo chiều và dừng quá trình giảm. Điểm mua thứ 1 xuất hiện ở những phiên test lại spring số 2 trước khi xuất hiện các thanh upbar với khối lượng lớn. Mức cắt lỗ là dưới đáy của Spring. Các cổ phiếu ở giai đoạn tích lũy lại thường có khả năng hồi phục mạnh hơn từ điểm Spring so với các cổ phiếu ở trong giai đoạn tích lũy đầu tiên như LVS. Vì vậy đợt hồi phục này sẽ nhanh chóng Break khỏi nền tích lũy lại và tiếp tục xu hướng uptrend trước đó.
Các điều kiện cần xuất hiện cho một quá trình uptrend dài hạn của cố phiếu? Đây là một câu hỏi rất quan trọng vì không phải ngẫu nhiên mà một cổ phiếu tăng khỏe và bền hơn các cổ phiếu khác. Khi Smart money nhận phát hiện ra một cổ phiếu tiềm năng, họ sẽ lên kế hoạch cho một chiến dịch rất cẩn thận. Mục đích là để họ có thể sở hữu một lượng lớn cổ phiếu đó ở mức giá hợp lý với kỳ vọng rằng công ty sẽ tăng trưởng trong tương lai giúp cho cổ phiếu tăng giá. Giai đoạn đầu của chiến dịch họ sẽ hấp thụ số lượng lớn cổ phần của công ty đó. Việc lập kế hoạch chi tiết rất quan trọng, bởi vì việc tích lũy cổ phiếu có thể mất nhiều tháng. Mục đích là để mua những cổ phiếu này một cách lặng lẽ mà không làm ai chú ý đến hoạt động của họ. Smart money không thể che giấu hành động của họ mãi mãi; việc mua gom đến một lúc nào đó sẽ bị các Smart money khác phát hiện ra. Những Smart money tham gia tích lũy từ giai đoạn đầu có lợi thế rất lớn, họ là người tích cực mua vào nhất khi giá cổ phiếu ở các điểm SCLX hoặc ngay sau điểm SCLX. Đó là nơi xuất hiện một lượng cung bán tháo rất lớn. Khi giai đoạn tích lũy hình thành, càng về sau việc mua một lượng lớn cổ phiếu càng trở lên khó khăn, vì vậy đòi hỏi một kỹ năng giao dịch cao hơn để có thể mua được nhiều cổ phiếu hơn mà không làm cho giá tăng quá cao.
Trong suốt giai đoạn tích lũy, có một lượng cung cổ phiếu trên thị trường. Với kế hoạch cẩn thận để thực hiện, các Smart money dự định mua gom cổ phiếu ở mức giá trung bình thấp nhất có thể. Khi giai đoạn này phát triển, khi mà việc tích lũy cổ phiếu bị phát hiện bởi các Smart money khác, sẽ xuất hiện sự cạnh tranh để mua lượng cung ít ỏi còn lại trên thị trường. Có một nghịch lý là khi giai đoạn tích lũy đang diễn ra thì công chúng vẫn còn hoang mang và bi quan vì giá cổ phiếu vẫn ở mức rất thấp. Đây chính là chìa khóa để cho Smart money có thể thực hiện chiến lược tích lũy của mình ở mức giá thấp. Khi giai đoạn tích lũy phát triển, việc mua gom cổ phiếu trở nên khó khăn hơn. Wyckoff rất hiểu các phương pháp của Smart money và ông biết rằng dấu chân của họ trên biểu đồ giá không thể bị che dấu.
Hấp thụ là đặc điểm chính của giai đoạn tích lũy. Smart money hấp thụ lượng cung cổ phiếu, giống như miếng bọt biển hấp thụ nước. Họ sẽ hấp thụ càng nhiều cổ phiếu ở một mức giá đủ hấp dẫn cho việc nắm giữ lâu dài. Kịch bản duy nhất để Smart money bán cổ phiếu ra là để họ thu về lợi nhuận khi giá cổ phiếu ở một mức rất cao. Nếu Smart money mua hết lượng cung cổ phiếu giá rẻ và nắm giữ, điều gì sẽ xảy ra với giá cổ phiếu? Khi cổ phiếu đang được sở hữu bởi Strong Holder, nguồn cung sẽ cạn dần, lúc này chỉ cần một lượng cầu nhẹ tham gia cũng sẽ làm giá cổ phiếu tăng. Xu hướng uptrend bắt đầu, đây là chính là thời điểm bạn mua vào cổ phiếu để đi cùng với Smart money.

Cổ phiếu được mua nhiều tại các điểm weakness do giá cổ phiếu rơi rất mạnh từ đầu của giai đoạn tích lũy xuống đáy. Sự hỗ trợ ở đường hỗ trợ chính là kết quả của việc Smart money hấp thụ lượng cung bán ồ ạ, bạn có thể phát hiện ra điều này khi quan sát cột khối lượng tăng đột biến.

Vùng tích lũy chính là vùng mà tại đó cung và cầu khá cân bằng. Trong biểu đồ trên của DOW, chúng ta thấy các cột khối lượng tăng rất cao. Nguồn cung lớn ở vùng giá thấp được hấp thụ hết , có nghĩa là sau đó giá sẽ tăng và nguồn cung cạn dần khi giá tăng trở lại vào trong vùng tích lũy. Nhiều cổ phiếu cũng có vùng tích lũy nhưng không được mua bởi smart money. Những cổ phiếu này sẽ không hiển thị các thuộc tính tích lũy và sẽ tiếp tục vận động sideway trong thời gian dài hoặc sẽ tiếp tục xu hướng downtrend trước đó. Chúng ta nên bỏ qua các cổ phiếu dạng này cho đến khi nào thấy Smart money bắt đầu tham gia.

Bài biết dưới đây nói về vùng sideway không có xu hướng sau khi giá dừng giảm. Đối với các nhà đầu tư hay các nhà giao dịch trên thị trường, vùng sideway không rõ xu hướng này là một khoảng thời gian cực dài và họ thường không thể chịu đựng được. Cổ phiếu biến động lỏng (biên độ giá rộng) dẫn đến việc đầu cơ của các nhà đầu tư nhỏ lẻ trong ngắn hạn. Trong khi đó smart money sử dụng môi trường này để mua vào cổ phiếu. Cách tốt nhất là bạn đứng ngoài, không tham gia mua vào cổ phiếu này cho đến khi cổ phiếu đã sẵn sàng cho một giai đoạn uptrend.

Hai năm cho một giai đoạn sideway là quá dài. Hãy để ý ở cuối của giai đoạn này xuất hiện một đáy mới kèm theo khối lượng tăng. Đây được gọi là phiên Spring#2.
Lưu ý đến đặc tính đảo chiều của Spring và đẩy giá tăng lên đường kháng cự. Hãy so sánh đợt tăng giá này với các đợt tăng giá trước đó trong giai đoạn tích lũy.
Bản chất của một xu hướng
Cổ phiếu thường có khuynh hướng vận động nhẹ nhàng, êm đềm trong các cùng tích lũy và sau đó khi kết thúc giai đoạn này nó sẽ vận động rất mạnh khi bắt đầu một xu hướng (uptrend hoặc downtrend). Điểm bùng nổ giữa cung và cầu dẫn đến những biến động rất mạnh của giá. Trong giai đoạn vận động êm đềm của cổ phiếu, hạt giống của một xu hướng đang được gieo trồng. Thiên tài trong đầu cơ chính là khả năng biết được khi nào giai đoạn sideway kết thúc. Thời điểm là tất cả mọi thứ.
Quá trình tích lũy chính là lúc hạt giống của sự thay đổi được gieo trồng. Tích lũy là nguyên nhân tạo ra hiệu ứng tiếp theo. Trong phần trước, chúng ta đã minh họa hành động hấp thụ của smart money. Hành động hấp thụ đó sẽ diễn ra cho đến khi không còn nguồn cung giá rẻ để hấp thụ nữa. Smart money đã sở hữu lượng lớn cổ phiếu trôi nổi và các nhà đầu tư nhỏ lẻ không còn nhiều cổ phiếu để bán. Đây chính là thời điểm giá sẽ bùng nổ vì không còn lý do gì để giá tiếp tục vận động nhàm chán ở vùng giá thấp. Trong thực tế, khi không còn lượng cung giá rẻ và xuất hiện một lượng cầu tăng nhẹ sẽ làm giá cổ phiếu tăng lên rất mạnh. Đó là lúc bắt đầu xu hướng mới, uptrend.
Cái hay của phương pháp Wyckoff là phát hiện ra quá trình tích lũy. Sau đó chờ đợi cho đến khi xuất hiện các tín hiệu cho thấy giai đoạn tích lũy đã kết thúc. Bạn sẽ học được cách để phát hiện ra hấp thụ của smart money ở những biến động tăng hoặc giảm trong vùng tích lũy. Bạn cũng sẽ có khả năng phân biệt được các hành động mua vào và bán ra của trong một số tình huống đặc biệt và dấu chân của smart money trong giai đoạn tích lũy.
Nhiều smart money không mua ở mức thấp trước đó để kiểm tra xem lượng cung mới có xuất hiện ở mức giá thấp mới hay không. Đối với smart money, phiên spring thực sự là một câu hỏi. Có bao nhiêu nguồn cung sẽ xuất hiện nếu giá giảm xuống dưới mức này? Nếu có nguồn cung, giá cổ phiếu có thể giảm xuống mức thấp hơn nhiều và smart money sẽ đặt sẵn các lệnh mua lớn ở mức giá rất thấp. Tình trạng này được gọi là phiên shakeout. Phiên shakeout thường đi kèm với khối lượng tăng đột biến. Khối lượng cao đột biến cho thấy một nguồn cung mới xuất hiện rất nhiều ở mức giá thấp hơn, điều này có thể làm giá tiếp tục giảm. Trong trường hợp khi giá tiếp tục giảm mà lượng cung xuất hiện càng nhiều thì đây là một phiên shakeout (Spring) thất bại.
Tín hiệu khối lượng là thông tin cuối cùng để xác nhận điểm mua. Trong ví dụ dưới đây, cổ phiếu CMG xuất hiện phiên Spring với khối lượng giao dịch thấp. Hãy để ý đến khối lượng: Khối lượng ở phiên này ở mức trung bình. Nếu không xuất hiện nguồn cung lớn ở mức giá thấp trong phiên, smart money xác nhận rằng nguồn cung đã cạn kiệt, khi đó smart money sẽ ngay lập tức mua thêm cổ phiếu và giá sẽ tăng. Theo Wyckoff, đây là điểm mua sớm và đặt điểm dừng lỗ dưới mức này. Đây thường gọi là điểm Spring#3.

Phiên Spring của CMG xuất hiện sớm hơn bình thường trong vùng tích lũy. Nhưng đây chắc chắn là phiên Spring vì hành động giá sau đó. Dấu hiệu sức mạnh (SOS) vượt qua tất cả các mức kháng cự kèm theo khối lượng tăng, đây là tín hiệu cho thấy smart money đang hoạt động. Điển hình là hành động spring sẽ phát triển các giai đoạn tích lũy sau đó.

Vào tháng 9/1982 chỉ số Dow Jones Industrial tạo đáy mới, và đây là điểm bắt đầu của một giai đoạn uptrend dài nhất lịch sử. Đây cũng là sự hình thành các tín hiệu tạo đáy. Ở điểm ST1 có thể là một phiên Spring thất bại với khối lượng giao dịch cao vì giá xuyên qua đường hỗ trợ với khối lượng gia dịch lớn (nguồn cung lớn được hấp thụ hết). Đợt hồi phục sau đó không đạt đến đường kháng cự do đó chưa tạo ra được một tín hiệu SOS trước khi bị điều chỉnh trở lại. Khối lượng cao ở những phiên giá giảm sâu thường phải test lại cung vì điều đó cho smart money thấy rằng vẫn còn rất nhiều lượng cung hàng ở mức giá thấp. ST2 cũng là một điểm giá giảm qua đường hỗ trợ sau đó đóng cửa trong phiên ở mức cao với khối lượng lớn. Đây có thể là một lỗ lực khác nhằm mục đích hấp thụ lượng cung còn lại, có cũng có thể là một phiên Spring thất bại. Ở phiên này khối lượng tiếp tục cao khi giá giảm dưới mức đường hỗ trợ. Sau đó sự phục hồi thậm chí còn yếu hơn cả lần phục hồi trước đó (ST1). Sau đó giá lại điều chỉnh trở lại và giá giảm thấp hơn cả mức đáy của ST2, tuy nhiên khối lượng lại thấp. Đây chính là điểm khác biệt giữa phiên Spring này và hai điểm ST1 và ST2. Quan sát 2 thanh bar ở điểm Spring ta thấy khối lượng thấp hơn ở điểm ST1 và ST2 (vòng tròn màu xanh). Tín hiệu này cho thấy phiên Test Spring này thành công, tức là lượng cung đã không còn nhiều. Sau điểm này giá bắt đầu tăng, trong 3 tuần chỉ số DJIA vượt qua khỏi đường kháng cự, đánh dấu một xu hướng uptrend mới.
Ở những điểm Spring nếu xuất hiện khối lượng cao, điều này chứng tỏ lượng cung giá thấp vẫn còn nhiều. Tức là smart money sẽ phải test lại cung ở một thời điểm nào đó, việc test này sẽ dừng lại cho đến khi nào lượng cung gần như cạn kiệt.
Chúng ta sẽ sử dụng những đặc điểm này của phiên Spring để phân tích chiến thuật điểm mua sớm khi xuất hiện Spring (đọc lại phần trên – Các điểm mua).


Khối lượng giao dịch cao đột biến so với những phiên trước đó là dấu hiệu của smart money để lại khi họ tích cực hấp thụ lượng hàng giá rẻ. Đây là lượng cầu đủ mạnh để hấp thụ hết lượng cung bán tháo trên thị trường. Bạn hãy tìm kiếm 04 điểm trên biểu đồ và đánh dấu nó là: PS, CLX, AR và ST. Khi bốn điểm này xuất hiện, đây là dấu hiệu xác nhận downtrend đã kết thúc. Vẫn còn quá sớm để gọi là tích lũy. Bạn chưa nên tham gia mua vào thời điểm này mà hãy chờ những tín hiệu khác cho điểm mua khi kết thúc giai đoạn tích lũy.

Trong ví dụ của cổ phiếu ESRX. Ngay khi bạn xác định được 04 điểm PS, CLX, AR và ST bạn hãy vẽ các đường hỗ trợ và kháng cự. Giá sẽ có xu hướng vận động ở giữa đường kháng cự và hỗ trợ này. Đây là một trong những kỹ thuật hữu ích trong phân tích kỹ thuật và nó là kỹ thuật duy nhất của Wyckoff để xác định thời điểm downtrend kết thúc. Bạn hãy lưu ý đến tâm lý hoảng loạn và bán tháo trong quá trình downtrend. Đây chính là điểm mà nhiều nhà đầu tư cảm thấy không yên tâm và thường dấn đến tâm lý bán theo bày đàn (FOMO). Ngoài ra AR là một dấu hiện cho thấy nguồn cung ngắn hạn đã tạm thời cạn kiệt (Mức tăng từ điểm CLX đến AR chỉ là tạm thời). Sau AR thường sẽ xuất hiện các điểm điều chỉnh về lại vùng giá điểm CLX hoặc thậm chí dưới mức giá CLX. Việc điều chỉnh này nhằm mục đích hấp thụ tiếp nguồn cung chưa xuất hiện ở điểm CLX.

Lưu ý: Cách vẽ đường hỗ trợ ở điểm CLX và đường kháng cự ở điểm AR. Đây sẽ là vùng giá vận động trong 07 tháng tích lũy của cổ phiếu VIAB.


PS là phiên giá ngừng rơi trong ngắn hạn theo sau là sự phục hồi. PS đôi khi có thể không xuất hiện. PS là một dấu hiệu đầu tiên cho thấy xuất hiện lực cầu hấp thụ cổ phiếu đang bán tháo. PS được phân biệt với CLX bằng cách nhìn vào sự hồi phục sau nó. Một AR chỉ ra rằng mức đáy trước là CLX. Chúng ta sẽ giải thích ý nghĩa của PS trong phần sau.

Trong vùng tích lũy, Cung và Cầu tương đối cân bằng. Chúng ta sẽ tìm hiểu cách xác định nếu xuất hiện các hành động của smart money trong vùng tích lũy. Tích lũy là một quá trình mất nhiều thời gian, thường là nhiều tháng.

Chúng ta hãy so sánh cổ phiếu APL với sơ đồ tích lũy số #1. Lưu ý những điểm tương đồng với sơ đồ tích lũy số #1. Việc đưa ra quyết định khi theo dõi và so sánh là một đặc tính của những người theo phương pháp Wyckoff. Vì vậy khi bạn so sánh nếu thấy tín hiệu tin cậy, bạn nên nhanh chóng đưa ra quyết định bắt đầu tham gia.
